Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (P)
Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (P)
P
PALÊÔGEN : (Pg) thời kì đầu
cuả kỉ Đệ Tam, gồm có hai thời kì nhỏ : Êôxen và Ôligôxen.
PAMPA : đồng cỏ ở Nam
Mĩ, hình thành trong điều kiện khí hậu ôn đới nóng, có mưa nhiều về mùa hạ. Ví
dụ : pampa ở Achentina...
PAMPÊRÔ : gió mạnh và
lạnh, có hướng nam hoặc tây-nam, thổi opử vùng pampa, trên lãnh thổ các nước
Achentina và Urugoay. Gió đem theo mưa và giông, làm cho nhiệt độ hạ xuống
đột ngột.
PECMI : (P) kỉ cuối cùng
của đại Cổ sinh, tiếp ngay sau kỉ Cacbon. Thời gian kéo dài khoảng 25 triệu
năm.
PHÁ : vũng nước mặn ở bờ biển, được hình thành do có doi cát
chắn ở phía ngoài và các cửa sông trong đất liền chảy ra. Phá thường có các cửa
thông với biển. Ví dụ : phá Tam giang ở Thừa Thiên có cửa Thuận An thông ra
biển...
PHẢN LƯU : dòng nước ( biển) chảy ngược chiều với một dòng khác.
Ví dụ : phản lưu xích đạo là dòng biển chảy theo hướng Tây - Đông, ngược chiều
với dòng biển xích đạo, chảy theo hướng Đông - Tây.
PHẢN TÍN PHONG : (nghịch tín phong) loại gió ở trên cao, thổi ngược
chiều với tín phong. Tín phong và phản tín phong tạo thành một vòng hoàn lưu
không khí, chuyển động theo chiều thẳng đứng. Tín phong là kết quả của sự
chuyển động của khối không khí sát mặt đất, từ
vùng chí tuyến về xích đạo, còn phản tín phong thì di chuyển ở trên cao,
từ xích đạo về chí tuyến, để bổ sung cho khối không khí ở chí tuyến đã chuyển
đi.
PHÁT KIẾN ĐỊA LÍ : sự phát hiện những vùng đất đai mới trên bề mặt Trái
đất. Trong lịch sử, thời kì từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII là thời kì có các cuộc
phát kiến địa lí lớn của nhân loại. Con người đã tìm ra các châu lục mới, khám
phá, đi sâu vào các lục địa và tìm ra các đường biển cũng như các đường bộ đi
từ châu lục này sang châu lục khác.
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG : thuật ngữ do LHQ
đưa ra để chỉ hình
thức phát
triển kinh tế-xã hội có tính đến yếu tố
môi trường. Mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội rõ ràng là phải hướng vào việc
khai thác môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả, nhưng đồng
thời vẫn phải tránh được sự huỷ hoại khả năng tái tạo bền vững của môi trường.
Nói một cách khác, cần phải bảo đảm sự cân bằng giữa sự phát triển kinh tế-xã
hội và bảo vệ môi trường.
PHAY : X. Đoạn tầng.
PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG QUỐC TẾ : sự phân hoá
trong quá trình sán xuất chuyên môn hoá
giữa các
nước. Mỗi nước đều có những mặt hàng sản xuất theo thế mạnh của mình để trao
đổi với các nước khác. Tình hình đó diễn
ra một cách tự phát, nhưng vẫn được coi như một quá trình có sự phân công về
mặt lao động sản - xuất.
PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG THEO LÃNH
THỔ : sự phân hoá trong quá trình sản xuất chuyên
môn hoá giữa các vùng trong một nước. Mỗi vùng
đều có những mặt hàng sản xuất theo thế mạnh của mình để trao đổi với các vùng
khác.
PHÂN HỮU CƠ : phân chứa những chất dinh dưỡng ở dạng những hợp chất
hữu cơ.
PHÂN KHOÁNG : phân bón chứa những nguyên tố đại lượng và vi lượng vô
cơ.
PHÂN LOẠI KHÍ HẬU : cách sắp xếp,
phân chia hệ thống khí hậu trên Trái Đất thành những loại, những kiểu khác
nhau. Có nhiều cách phân loại tuỳ thuộc vào quan điểm của các nhà khí hậu học. Tương đối đơn giản và thông dụng
trong các tài liệu giáo khoa hiện nay là cách phân loại của nhà khí hậu học Nga B.P. Alixôp. Theo
cách phân loại này, thì khí hậu trên thế giới có thể chia ra 4 loại chính ( khí
hậu xích đới, khí hậu nhiệt đới, khí hậu ôn đới và khí hậu cực đới ) và 3 loại
phụ ( khí hậu cận xích đạo, khí hậu cận nhiệt đới và khí hậu cận cực đới).
Trong mỗi loại lại có thể phân chia thêm một số kiểu như : khí hậu lục địa, khí
hậu ở bờ tây các lục địa và
khí hậu ở bờ
đông các lục địa.
PHÂN LƯU : dòng chảy chia bớt lượng nước cho một dòng sông.
PHÂN
THUỶ : X. Đường
chia nước.
PHÂN
VI LƯỢNG : phân chứa một lượng nhỏ
các chất hoạt hoá các quá trình sinh hoá cần thiết cho
sự sinh trưởng của thực vật.
PHÂN
VI SINH : phân có chứa các vi sinh vật có ích, nhằm làm tăng độ phì nhiêu
cho đất và tăng năng suất cây trồng. Loại phân vi sinh phổ biến hiện nay là
loại chứa các vi khuẩn cộng sinh cố định đạm ở các nốt sần trên rễ các cây họ
đậu. Việc bón các loại phân vi sinh có tác dụng tương tự như bón phân đạm,
nhưng với số lượng ít hơn nhiều và nhất là không làm ô nhiễm môi trường.
PHÂN
VÔ CƠ : còn gọi là phân khoáng,
vì thành phần các chất dinh dưỡng của nó chủ yếu là các chất vô cơ.
PHẪU
DIỆN ĐẤT : mặt cắt
theo chiều thẳng đứng, biểu hiện được toàn bộ cấu trúc các tầng đất trong một loại thổ nhưỡng. Độ sâu của phẫu
diện đất phải đạt tối thiểu khoảng 1,2m. Dựa vào phẫu diện đất, người ta có thể
phát hiện ra được các đặc điểm cũng như nguồn gốc phát sinh và quá trình phát triển của các loại thổ
nhưỡng.
PHERALIT
: loại đất màu đỏ hoặc vàng đỏ, hình thành ở
các miền nhiệt đới ẩm như nước ta, có thành phần chủ yếu là các khoáng vật thứ
sinh, chứa nhiều ôxyt sắt và nhôm, trong đó tỉ lệ ôxyt sắt cao hơn tỉ lệ ôxyt
nhôm.
PHENXPAT
: khoáng vật có phạm vi phân bố rất rộng
trong lớp vỏ Trái Đất. Thành phần chủ yếu là muối của axit silic với canxi,
kali...Phenxpat không hoà tan trong nước, nhưng khi lộ ra ngoài mặt đất, chịu tác động của không khí và
nước cũng bị phân giải, sau một thời gian, thành đất sét trắng.
PHI
ĐỊA ĐỚI : không phụ
thuộc vào tính chất phân bố theo đới. Ví dụ : núi và sông là những yếu tố phi
địa đới của cảnh quan, bởi vì chúng có mặt ở tất cả các đới, không phụ thuộc
vào riêng một đới nào. Tuy vậy, ảnh hưởng của đới vẫn để lại dấu vết trên các
yếu tố phi địa đới này.
PHIO
: thuật ngữ có gốc từ tiếng Na Uy chỉ nhánh
biển hẹp, hai bên có vách đá dốc, ăn sâu vào đất liền, có khi tới 200km. Phio
được hình thành trong những vùng trước đây vốn có băng hà bao phủ. Đó là những
thung lũng băng hà cổ đã bị nước biển tiến vào phủ ngập. Hiện nay, Phio còn có
nhiều ở bờ tây bán đảo Scanđinavi, ở đảo Grơnlen, và ở Pêru.
PHONG
HOÁ
: quá trình phân huỷ và làm biến đổi các
loại đá do tác động của các nhân tố ngoại lực. Có thể phân ra 3 loại phong hoá
chủ yếu :
1)- Phong hoá lí học ( phong
hoá cơ giới, cơ học) là sự phá huỷ đá ra thành các khối vụn có kích
thước to, nhỏ khác nhau. Thành phần hoá
học của đá và các khoáng vật không thay đổi. Các nhân tố chủ yếu của loại phong
hoá này là ; sự thay đổi đột ngột về
nhiệt độ, tác động ma sát hoặc va đập
của gió, của sóng, của nước chảy v.v...
2)- Phong hoá hoá học là sự phá huỷ, làm biến đổi đá và các khoáng
vật của nó do tác động của không khí và các loại dung dịch ( ôxy hoá, hoà tan
do axit cacbônic v.v...). Trong loại phong hoá này, đá và các khoáng vật của nó
bị biến đổi chủ yếu về mặt thành phần hoá học. Ví dụ : phenxpat bị phong hoá
thành sét cao lanh (kaolin).
3)- Phong hoá sinh học là sự phá huỷ đá và các khoáng vật của nó dưới
tác động của các sinh vật như : các vi khuẩn, nấm, mốc, rêu, rễ cây v.v...Các
sinh vật này len lỏi vào các kẽ đá, tiết ra dung dịch, làm cho đá vừa bị phá huỷ về mặt cơ giới, vừa bị
phá huỷ về mặt hoá học. Sự phân biệt ra ba loại phong hoá nói trên, thực ra chỉ
có ý nghĩa về mặt lí thuyết. Trong thực tế, quá trình phong hoá thường diễn ra
đồng thời về cả 3 mặt : lí học, hoá học và sinh học. Tuy nhiên, tuỳ từng trường
hợp, sẽ có một mặt trội hơn hai mặt
khác.
PHONG KẾ : ( phong tốc kế)
X. Máy đo gió.
PHÓNG LƯU : (jet stream)
dòng không khí chuyển động rất nhanh, theo hướng tây-đông, quan sát được ở những lớp không khí trên cao ( từ
10.000 đến 15.000m) trong các vùng cận nhiệt
đới của hai bán cầu. Tốc độ gió đạt tới 500km/h.
PHÓNG XẠ : đặc tính của một
số chất hoá học có khả năng tự phân huỷ trong những khoảng thời gian khác nhau,
để biến thành các chất khác như : rađi, thôri, urani v.v...Trong quá trình tự
phân huỷ, sẽ có một nguồn năng lượng nhiệt rất cao được giải phóng. Hiện nay,
thời gian tự phân huỷ của các chất phóng xạ cũng còn được nghiên cứu để tính
tuổi địa chất của các lớp đất đá, các loại hoá thạch. Ví dụ : chất phóng xạ
đồng vị của cacbon C14.
PHÔTPHORIT : loại đá trầm tích, thường có màu xám xẫm, giàu hợp chất
muối của axit phôtphoric. Các hợp chất này phần lớn có dạng hạt. Những nơi có nhiều
mỏ phôtphorit trên thế giới là vùng Bắc
Phi, bán đảo Phloriđa ở Hoa Kì v.v...
PHƠN : thuật ngữ gốc
tiếng Đức, chỉ loại gió nóng khô, thổi từ sườn nam núi Anpơ sang các thung lũng
núi ở sườn bắc, trên đất Đức và Thuỵ Sĩ.
X. thêm : Gió Phơn.
PHRÔNG : diện tiếp xúc giữa các khối khí có đặc tính khác nhau
về nhiệt độ, mật độ và độ ẩm. X. Khối
khí.
PHÙ SA : hạt vật chất
nhỏ và mịn, có nguồn gốc từ các loại đá vụn bở và được các dòng sông mang theo
dòng nước. Phù sa là vật liệu tạo nên các dạng địa hình bồi tích ở vùng hạ
lưu sông.
PHỤ LƯU : nhánh sông phụ
đổ nước vào sông chính. Ví dụ : sông Lô, sông Đà là các phụ lưu của sông Hồng.
PHỤ PHẨM : sản phẩm phụ
thu được trong quá trình sản xuất một sản phẩm khác, được coi là sản phẩm chính.
PHƯƠNG PHÁP CHIẾU ĐỒ : phương pháp
biểu hiện mạng lưới kinh vĩ tuyến trên bề mặt Trái Đất lên mặt phẳng của giấy để vẽ bản đồ, bằng
cách chiếu hình. Có nhiều phương pháp chiếu đồ
khác nhau. Nếu căn cứ vào đặc tính sai số của việc chiếu hình, có thể
phân ra : phương pháp chiếu đồ đồng góc,
phương pháp chiếu đồ đồng diện tích, phương pháp chiếu đồ đồng khoảng cách. Nếu
căn cứ vào đặc điểm của bề mặt hình chiếu, có thể phân ra : phương pháp chiếu
đồ phương vị ( bề mặt quả cầu trực tiếp
chiếu lên mặt phẳng), phương pháp chiếu đồ hình trụ ( bề mặt quả cầu chiếu lên bề mặt một hình trụ, sau đó trải ra
thành mặt phẳng) và phương pháp chiếu đồ hình nón ( bề mặt quả cầu chiếu lên
mặt một hình nón, sau đó trải ra thành mặt phẳng). Nếu căn cứ vào đặc điểm vị
trí đặt quả cầu khi chiếu hình, có thể phân ra : phương pháp chiếu đồ theo cực,
phương pháp chiếu đồ theo xích đạo và phương pháp chiếu đồ nghiêng.
PHƯƠNG PHÁP ĐỊA CHẤN : phương pháp
thăm dò địa vật lí dựa trên đặc tính và tốc độ của các sóng âm phản xạ từ những bề mặt tiếp xúc khác nhau của các
lớp đất đá ở dưới sâu, khi tạo ra những
chấn động ( do một chất nổ gây ra) ở trên mặt đất. Với phương pháp địa chấn,
người ta có thể đoán định được cấu tạo
cũng như thành phần của các lớp đất đá ở dưới sâu, trong lòng Trái Đất. Hiện
nay, phương pháp địa chấn cũng được dùng khá phổ biến trong công tác thăm dò
địa chất và các mỏ khoáng sản.
PHƯƠNG PHÁP LỊCH SỬ : một trong những
phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó có khoa học địa lí.
Các nhà địa lí học dùng phương pháp lịch sử để nghiên cứu các sự kiện, hiện
tượng địa lí tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội đã xảy ra trong quá khứ, từ đó
giải thích được và hiểu sâu hơn những sự
kiện và hiện tượng địa lí đang xảy ra hiện nay và hướng phát triển của chúng
trong tương lai.
PHƯƠNG PHÁP TAYLO : cách thức tổ
chức hợp lí hoá sản xuất do kĩ sư Taylo đề xuất, nhằm tăng năng suất lao động
bằng cách thực hiện việc chuyên môn hoá và định lượng thời gian cần thiết cho
những thao tác trong một dây chuyền sản xuất.
PICHMÊ : các bộ tộc người
có thân thể lùn thấp, da màu nâu xẫm, chiều cao trung bình từ 1,4 đến
1,5m. Người Nêgrilô ở vùng châu Phi xích đạo và người Nêgritô ở vùng
Đông Nam Á (Xumatra, Malaixia, Irian v.v..)
cũng thuộc chủng tộc này.
PIRIT : quặng sắt có thành
phần chủ yếu là sunphua sắt ( FeS2).
PIRÔXEN : khoáng vật có
nhiều trong thành phần các loại đá phún xuất. Thành phần chủ yếu gồm : silicat
sắt, manhê, canxi và đôi khi có cả nhôm.
PLANTÔN : ( sinh vật nổi,
sinh vật phù du) sinh vật không có cơ
quan tự di chuyển, trôi nổi trên mặt nước hoặc trong các lớp nước. Plantôn là
nguồn thức ăn chính của các loài cá, tôm ...
PNB : (produit
national brut) tổng giá trị của cải do
tất cả các cơ sở sản xuất của một nước ( trong lãnh thổ quốc gia và ở nước
ngoài) làm thêm ra được, ngoài giá trị các tài sản đã có. PNB cũng còn gọi là thu nhập quốc dân.
PÔLINÊDIÊNG : dân cư sinh sống
trên các đảo thuộc quần đảo Pôlinêdi trong Thái Bình Dương.
PÔTDÔN : loại đất chua, nghèo chất dinh dưỡng, do chịu tác động
rửa trôi mạnh trong điều kiện khí hậu lạnh, ẩm. Loại đất này trên mặt có một tầng rửa trôi (A2),
màu xám tro, nên có tên pôtdôn . Đất
pôtdôn phát triển chủ yếu ở các vùng ôn đới lạnh, dưới rừng cây lá kim.
PÔTDÔN HOÁ : quá trình đất bị
rửa trôi các chất dinh dưỡng, làm xuất hiện tầng đất cát màu xám tro, chua,
nghèo mùn (tầng pôtdôn) không thích hợp đối với sản xuất nông nghiệp.
PRERI : vùng đồng cỏ ôn
đới rộng lớn ở miền trung Bắc Mĩ, kéo dài từ Canađa xuống Hoa Kì. Vùng này có
nhiều điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa mì và chăn nuôi gia súc.
PUMA : thú ăn thịt, có
hình dạng giống sư tử cái, không có bờm, sống ở châu Mĩ.
PUNA : bình nguyên
bán hoang mạc trong vùng núi Anđet ở Nam
Mĩ. Ví dụ : puna Atacama.HLTcoffee.com - Vị thật cafe Việt