Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (B)
B
BACBA : (barbara) trước
đây,người Hi Lạp gọi tất cả các dân tộc khác, kể cả người La Mã, có nền
văn minh khác của họ là Bacba. Trong lịch sử,
thuật ngữ Bacba dùng để chỉ các đội quân đã
xâm lược và lật đổ đế
quốc La Mã ( từ thế kỉ 4 đến thế kỉ 6). Nói chung, thuật ngữ Bacba chỉ
các dân
tộc ngoại lai với ý nghĩa khinh miệt.
BACKHAN : cồn cát hình lưỡi liềm, hình thành trong các sa mạc do
tác động của gió. Bộ phận lồi
của hình lưỡi liềm bao giờ cũng quay về hướng gió
thổi. Backhan có hai sườn không đối xứng:
sườn hướng gió thoải hơn sườn khuất gió. Cồn cát
thường cao từ 30m trở lên và có thể di
chuyển với
tốc độ mỗi năm vài chục hoặc vài trăm
mét, làm cho nhiều ruộng, vườn, nhà cửa bị
vùi lấp.
BADAN : loại đá phún xuất kiềm, màu xẫm, có tinh thể mịn, đặc
trưng cho những vùng có dung
nham núi lửa. Đá badan thường phủ những diện tích
rộng hàng trăm, hàng nghìn km2. Đá được
dùng làm vật liệu
xây dựng. Khi bị phân huỷ, trở thành loại đất đỏ phì nhiêu, thuận lợi
cho
việc
trồng các loại cây công nghiệp quý như: cao su, cà phê, hồ tiêu vv...
BÃI BỒI : bộ phận của
thung lũng sông do phù sa bồi đắp, thường bị ngập nước vào mùa lũ. Kích
thước của bãi
bồi rộng hẹp, tuỳ thuộc vào vị trí của nó trong thung lũng sông và chiều rộng
của
các dòng
sông. Ơ gần cửa sông và trong các thung lũng lớn, bãi bồi có thể dài, rộng hàng
chục
km. Đất trên
các bãi bồi thường phì nhiêu, có thể canh tác được vào mùa nước cạn.
BÃI TRIỀU : dải đất thấp ven biển bị ngập nước lúc triều lên và lộ
ra lúc triều xuống. Bãi triều
thường là nơi
có đầm lầy hoặc rừng ngập mặn.
B.A.M. :
(Baikal-Amour-Magistral) tên viết
tắt chỉ đường xe lửa chạy điện trên lãnh thổ Liên bang
Nga (ở phía
bắc đường sắt cũ xuyên Xibia) nối vùng hồ Baican với vung sông Amua, dài
trên
4.000km.
Đường được hoàn thành vào năm 1987. Dọc theo đường này, có tới 4.000 công trình
xây dựng lớn, trong đó có khoảng trên 150 cầu dài
hàng trăm mét.
BAN TU : tên chỉ các tộc
người da đen sống ở phía nam vùng xích đạo châu Phi, họ có ngôn ngữ
gần nhau, nhưng thuộc nhiều dân tộc khác nhau.
Người Ban tu có tóc quăn, thân hình cao lớn
(từ trung
bình trở lên), sinh sống chủ yếu về săn bắn, chăn nuôi trâu, bò. Một số ít cũng
làm
nông nghiệp.
BÁN BÌNH NGUYÊN : khái niệm cũ chỉ
loại bình nguyên được hình thành do hoạt động xâm thực của nước
chảy, làm cho địa hình hạ thấp. Kết quả là địa hình có dạng tương đối
bằng phẳng, mềm mại với những thung lũng
sông mở rộng. Hiện nay, người ta dùng thuật ngữ bề mặt san bằng để chỉ loại địa hình này.
BÁN CẦU : (nửa cầu) bộ phận của Địa cầu khi chia đôi thành hai
nửa bằng nhau.
- nếu mặt chia cắt là mặt phẳng xích đạo, thì
nửa cầu có chứa cực Bắc là bán cầu Bắc,
nửa cầu có
chứa cực Nam là bán cầu Nam.
- nếu mặt cắt là mặt phẳng chứa vòng kinh tuyến
20oT - 160oĐ, thì nửa cầu trên đó có
các châu
lục Âu, A, Phi, Ôxtrâylia là bán cầu Đông, nửa cầu trên đó có toàn bộ
châu Mĩ là
bán cầu Tây. Việc phân chia hai bán cầu Đông, Tây
theo vòng kinh tuyến 20oT , 160oĐ có
thuận lợi là bảo
đảm được sự toàn vẹn của lãnh thổ
nước Anh khi biểu hiện nó trên bán cầu
Đông.
BÁN ĐẢO : bộ phận đất liền
nhô ra biển hoặc đại dương, có 3 mặt tiếp giáp với nước, còn một mặt
gắn với lục địa. Ví dụ: bán đảo Đông Dương, bán
đảo Triều Tiên vv...
BÁN HOANG MẠC : 1.- kiểu cảnh quan ở các vùng có khí hậu khô hạn
2.- đới tự nhiên trên lục địa, có vị trí giữa các
đới thảo nguyên và hoang
mạc (trong
các vòng đai ôn đới và cận nhiệt) hoặc giữa các đới hoang mạc và xavan (trong
vòng
đai nhiệt
đới). Đới bán hoang mạc được phân bố
trên khắp các lục địa (trừ Nam Cực), chủ yếu ở
các vùng giữa và gần bờ phía tây vùng vĩ độ thấp,
có khí hậu lục địa khô khan. Lượng mưa hàng
năm không quá 300mm (ít hơn lượng nước bốc hơi 5 - 6 lần). Mùa hạ nóng
(nhiệt độ trung
bình từ
20 đến 30oC), mùa đông lạnh
(ở ôn đới bán cầu Bắc, nhiệt độ trung
bình tháng 1 dưới
0oC,
ở cận nhiệt đới từ 0 đến 10oC,
ở nhiệt đới từ 12 đến 20oC).
Thổ nhưỡng
chủ yếu là đất xám nhạt, đôi chỗ có đất mặn. Thực vật chính là các loài cây
gai,
cây lá bóng
hoặc cây bụi và cỏ. Đới bán hoang mạc có ở Trung A, ở châu Phi (phía
nam
Xahara),
ở Nam Mĩ và ở Ôxtrâylia.
BÁN NHẬT TRIỀU : loại hình nước
triều lên xuống theo chế độ mỗi ngày có hai lần lên và hai lần xuống. Ví dụ : thuỷ triều ở bờ biển phía Đông miền Nam
nước ta. Chế độ bán nhật triều là chế độ hoạt
động của thuỷ triều ở phần lớn những vùng biển mở rộng ra đại dương,
không bị các
đảo và
quần đảo che chắn.
BẢN ĐỊA : tại chỗ, có gốc
ở địa phương. Ví dụ : dân bản địa là dân sinh sống lâu đời tại địa
phương.
BẢN ĐỒ CHUYÊN MÔN : bản đồ biểu hiện
sự phân bố những hiện tượng và quá trình có liên quan đến một
ngành chuyên môn,có mục đích và tính chất chuyên dụng như: bản đồ hàng hải, bản đồ hàng không vv....
BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ : hình vẽ thu nhỏ
bề mặt Trái Đất hoặc một bộ phận của bề mặt Trái Đất trên mặt
phẳng, dựa
vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu hiện bằng kí hiệu để thể hiện
các
thông tin cần
thiết về địa lí.
Về nội
dung, các bản đồ địa lí được phân ra hai nhóm lớn: bản đồ địa lí tự nhiên và
bản đồ
địa lí kinh tế
xã hội. Trong mỗi nhóm lại có những bản đồ chuyên đề, thể hiện
những thông tin
về một loại yếu tố hoặc hiện tượng địa lí như: bản đồ địa hình, bản
đồ khí hậu, bản đồ thuỷ
văn, bản đồ
dân cư, bản đồ công nghiệp, bản đồ nông
nghiệp vv...
Các bản
đồ địa lí chuyên đề rất phong phú về đề tài và về phương pháp thể hiện. Có
những
bản đồ phân
tích chỉ quan tâm đến việc thể hiện một mặt cụ thể nào đó của đề tài như: bản
đồ
phân bố các
thành phần dân tộc, bản đồ mật độ dân số vv...,nhưng cũng có những bản đồ
tổng
hợp lại quan tâm
tương đối đầy đủ đến các mối quan hệ giữa các yếu tố (cả về mặt số lượng
cũng như chất lượng) như: bản đồ sản xuất nông nghiệp,
bản đồ địa lí công nghiệp vv...
Trên
bản đồ, việc biểu hiện các lãnh thổ lớn bao giờ cũng có những biến dạng về
phương
hướng, về khoảng cách và về diện tích.
Cơ sở
của việc vẽ bản đồ là lưới chiếu (mạng lưới kinh vĩ tuyến). Để giúp cho
việc sử dụng
bản đồ được thuận tiện,trên bản đồ bao giờ
cũng có ghi tỉ lệ và bảng chú giải.
Tỉ lệ
bản đồ có thể phân ra: tỉ lệ lớn (> 1/200.000), tỉ lệ trung bình
(từ 1/200.000 đến
1/1.000.000)
và tỉ lệ nhỏ ( < 1/1.000.000).
Số
lượng địa danh và kí hiệu ghi trên bản đồ phụ thuộc vào tỉ lệ bản đồ, bởi vì
khi biểu hiện
diện
tích 1km2 mặt đất thực tế lên bản đồ, thì với :
- tỉ lệ 1/1.000, diện tích 1km2 trên bản đồ là 1m2
- tỉ lệ
1/10.000 " " " " " 1dm2
- tỉ lệ 1/100.000 " " " " " 1cm2
- tỉ lệ 1/1.000.000 " " " " " 1mm2
Tỉ lệ
bản đồ càng nhỏ, những chi tiết ghi trên bản đồ càng bị hạn chế, do đó số lượng
các
đối tượng lựa chọn để ghi lên bản đồ càng phải
giảm bớt.
BẢN ĐỒ HỌC : khoa học nghiên
cứu về lí luận, phương pháp và các biện pháp kĩ thuật để xây dựng bản đồ,sử
dụng bản đồ cũng như các sản phẩm khác có liên quan đến bản đồ như : quả địa
cầu, các mô hình, lát cắt...
BẢN ĐỒ TÔPÔ : loại bản đồ có
tỉ lệ lớn (từ 1/200.000 trở lên) biểu hiện một cách chính xác và chi tiết mặt đất
các lãnh thổ. Các yếu tố biểu hiện bao gồm : vị trí, hình dáng lãnh thổ,
các đặc
điểm địa hình (bằng các đường bình độ), và những đối tượng địa lí cụ
thể cố định trên lãnh thổ
(bằng các
kí hiệu) như : đường xá, thành phố, làng
xóm vv...Hai mép bên phải, bên trái bản
đồ
bao giờ cũng
trùng với hướng của các đường kinh tuyến.
BẢN ĐỒ XINÔP : bản đồ phục vụ cho việc dự báo thời tiết. Trên bản đồ
Xinôp có ghi vẽ những số
liệu, những kí
hiệu về nhiệt độ,khí áp,độ ẩm,về hướng di chuyển của các khối khí,các
phrông
vv....
BẢN SẮC DÂN TỘC : tính bền vững
và độc đáo của dân tộc thể hiện trong truyền
thống về ngôn
ngữ, tư duy,nghệ thuật,phong tục,tập quán vv...
BAO BAP : (Adansonia
digitata) cây to ở vùng xavan nhiệt đới
châu Phi và Ôxtrâylia. Thân cây
có chu vi từ 20 đến 30m, dự trữ được nhiều nước
để sử dụng trong mùa khô. Quả có thể ăn được.
Cây bao bap
sống được tới 4 - 5 nghìn năm.
BÁO : thú ăn thịt,
thuộc họ Mèo, leo trèo giỏi, có lông màu vàng đốm đen, sống ở châu A,châu Phi
và châu Mĩ.
BÀO MÒN :
(corrasion) tác dụng làm mòn các
lớp đất đá khi bề mặt các lớp này chịu sự cọ xát của những vật liệu rắn do các
dòng nước chảy hoặc băng hà mang theo.
BẢO VỆ ĐẤT : hệ thống những
biện pháp nhằm ngăn ngừa các hiện tượng : xói mòn, phá huỷ, ô
nhiễm
đất...cũng như việc sử dụng đất không hợp lí, kém hiệu quả.
BÃO : gió mạnh kèm
theo mưa rất to do sự xuất hiện và hoạt động của các khu áp thấp rất sâu.
Tốc
độ gió
từ 65km/h trở lên. Bão thường có sức phá
hoại rất lớn như : làm đổ cây cối, phá hoại nhà
cửa, gây ngập
úng.
BÃO CÁT : hiện tượng gió
mạnh cuốn theo cát bụi mù mịt, thường xảy ra ở các vùng hoang mạc
và bán hoang mạc. Rất nguy hiểm cho sự đi lại của
người và súc vật trên sa mạc. Khối cát
di
chuyển nhiều khi
có thể vùi lấp hàng nghìn ha đất trồng trọt ở những vùng xung quanh.
BÃO TUYẾT : hiện tượng mưa
tuyết lớn kèm theo gió mạnh, xuất hiện ở những vùng có khí hậu
lạnh.
BATLEN : (badland) thuật ngữ gốc tiếng Anh, chỉ loại địa hình bị
xâm thực rất mạnh, nên có một
hệ thống khe
rãnh dày đặc, thường gặp ở những miền trước núi hoặc đồi thấp có phủ trầm tích
sét, sét pha, nhưng không có lớp phủ thực vật ( do
đã bị phá huỷ). Loại địa hình này không
những không
thích hợp cho việc canh tác mà còn gây nhiều khó khăn, trở ngại cho việc giao
thông, đi
lại.
BATÔLIT : khối đá xâm nhập
lớn, thuộc loại đá granit, thường không có hình thù nhất định, nằm
xen giữa các lớp đá trầm tích và chiếm những diện
tích rộng hàng trăm km 2.
BẮC CỰC : khu vực ở xung
quanh cực Bắc, phía nam được giới hạn ở đường đẳng nhiệt 10oC
về
mùa hạ. Nằm trong khu vực Bắc cực có Bắc Băng
Dương, vùng rìa phía bắc của các đại lục
Âu - A, Bắc
Mĩ và các đảo phụ cận. Diện tích khu vực rộng khoảng 25 triệu km2 ,
trong đó 3/5
là biển và
đại dương, thường xuyên bị băng bao phủ.
Chiều dày của lớp băng từ 2 đến 4m.
Trong khu vực
Bắc cực cũng có nhiều núi băng trôi, hầu hết theo hướng từ đông sang
tây. Khu
vực Bắc cực
có khí hậu lạnh giá, nhiệt độ trung bình
tháng 1 ở bộ phận trung tâm vào khoảng -
40oC .Nhiệt độ thấp nhất ghi
được là - 52oC ,cao nhất là +6oC . Lượng mưa dao động từ
100mm ở trung tâm đến 400mm ở rìa phía nam. Độ bốc hơi rất yếu, vì vậy không khí ở đây lúc nào cũng bão hoà hơi
nước. Đêm cực trong khu vực kéo dài từ vài ngày ở 66o33' B đến 179
ngày ở ngay điểm cực Bắc. Kiểu cảnh quan
chủ yếu trong khu vực là đới băng tuyết vĩnh cửu và đài nguyên.
BĂNG BIỂN : Lớp băng mỏng
dày từ 2 đến 4m hình thành ở lớp nước trên mặt của các biển và
đại dương, về mùa đông trên các vùng vĩ tuyến
cao. Về mùa hạ, lớp băng này nứt vỡ thành từng
mảng, trôi
theo các dòng hải lưu, nhiều khi chờm ghếch lên nhau thành các khối băng trôi
cao
tới 8 - 10m.
BĂNG HÀ : hình thức di
chuyển chậm của các khối băng lớn từ cao xuống thấp, doc theo các sườn
hoặc thung
lũng núi ở các miền núi cao có băng tuyết. Các khối băng này được hình thành do
quá trình
tích tụ và bị nén chặt của một khối lượng lớn tuyết trên các núi cao. Tốc độ di
chuyển
của băng hà
rất khác nhau, có thể từ 10 đến
100m/năm. Tốc độ lớn nhất quan sát được là tốc độ
của một số
băng hà trên đảo Grơnlen (10 - 40m/ngày).
Trong quá trình di chuyển,ngay các bộ
phận trong nội bộ một băng hà cũng có tốc độ khác
nhau, vì vậy băng hà thường có nhiều khe nứt, chiều
rộng đôi khi đạt tới vài mét và chiều sâu tới
vài chục
mét. Các khe nứt này thường có một lớp
tuyết mỏng phủ kín, nên rất nguy hiểm
đối
với những nhà thám hiểm, nghiên cứu băng hà.
Trong
quá trình di chuyển, băng hà cũng bào mòn các lớp đá, vận chuyển theo nó các
khối
đá tảng ở
trước lưỡi băng, ở hai bên sườn hoặc ở giữa (nếu có sự gặp nhau của hai băng
hà) tạo
thành các dải đôi thạch đầu, đôi thạch bờ và đôi
thạch giữa.
Về mùa
đông, dòng chảy của băng hà bao giờ cũng kéo dài, lấn xuống dưới đường giới
hạn
tuyết. Về mùa
xuân, khi bộ phận đầu của lưỡi băng hà tan thành nước, băng hà lại rút lui về
phía
trên đường
giới hạn tuyết.
Nước
băng tan là nguyên nhân gây ra các trận lũ mùa xuân của các sông bắt nguồn ở
các
vùng núi cao.
Băng hà có ở hầu khắp các châu lục (trừ Ôxtrâylia).
BĂNG HÀ HỌC : Khoa học nghiên
cứu về nguồn gốc phát sinh, sự phát triển, các hoạt động và sự
phân bố địa lí của các băng hà trên bề mặt Trái
Đất. Hiên nay, các băng hà bao phủ khoảng trên
10% diện tích
các lục địa và giữ lại một khối lượng nước ngọt bằng khoảng 240 triệu km3.
BĂNG KẾT VĨNH CỬU : lớp băng phủ
lâu dài (từ hàng chục đến hàng vạn năm) ở trên mặt và cả
ở trong các lớp đất sâu của những vùng có khí hậu rất
lạnh ( vùng hai cực và trên các núi cao).
BĂNG LỤC ĐỊA : lớp băng cứng
và dày ( từ vài trăm mét đến 1500m) ,bao phủ những diện tích
rộng lớn trên
các đảo vùng Bắc cực ( Grơnlen, Bapphin vv...) và trên lục địa Nam cực. Băng
lục
địa luôn luôn di
chuyển từ những nơi cao ở vùng trung tâm ra vùng ngoài rìa, rồi
trườn xuống
biển. Khi đứt
gãy, trở thành các núi băng trôi. Độ cao của băng nổi trên mặt nước biển thường
từ 30
đến 50m. Các núi băng này rất nguy hiểm cho tàu bè đi lại trong các
biển và đại dương
vùng gần cực.
BẬC THỀM : dạng địa hình
bồi tụ trông giống như những bậc thềm, được hình thành trong các
thung lũng sông, trên các dải bờ biển, bờ hồ do kết
quả hạ thấp mực nước của lòng sông, của
biển hay của hồ, khi các loại địa hình này bị nâng
cao.
BECBE : tộc người sinh
sống trước đây ở các vùng núi thuộc Bắc Phi. Tôn giáo chính của họ là đạo
Hồi. Ngôn ngữ
Becbe cũng là ngôn ngữ cổ nhất ở vùng này ( hiện nay còn được dùng ở một
số
vùng núi thuộc các quốc gia Angiêri và Marôc). Sau này
người Becbe chịu ảnh hưởng của văn
hoá và ngôn
ngữ Aráp, nên được gọi là người Becbe -
Aráp.
BENGALI : ngôn ngữ của các
tộc người sinh sống ở vùng Bengan, ở phía đông bắc bán đảo Ân Độ.
BENTÔT : thuật ngữ chỉ
chung các loài sinh vật sinh sống ở đáy các biển, đại dương hoặc ở đáy các
hồ nước ngọt.
BÊĐUIN : (Bédouins) thuật ngữ chỉ các tộc người Aráp sống du mục
trong các hoang mạc ở Bắc
Phi và Trung Đông.
BỀ MẶT SAN BẰNG : dạng địa hình
tương đối bằng phẳng trên các lục địa được hình thành do tác
động bào mòn
của các ngoại lực. Dạng địa hình này trước đây được gọi là bán bình
nguyên. X.
Bán bình
nguyên.
BẾN CẢNG : khoảng bờ biển, bờ hồ, bờ sông được che khuất sóng,
gió vv...thuận lợi cho việc ra vào,
trú ẩn của
tàu, thuyền , xây dựng các công trình phục vụ cho việc giao thông, vận tải và
bốc dỡ
hàng hoá.
BICH BANG : (Bigbang=tiếng nổ lớn) thuyết về sự hình thành vũ
trụ,cho rằng vũ trụ lúc đầu chỉ là
một khối vật chất hết sức nhỏ bé,đậm đặc và vô
cùng nóng goị là"nguyên tử nguyên thuỷ".Các
nhà thiên văn học
cũng gọi nó là "trứng vũ trụ."Cách đây 15 tỉ năm,sau một vụ nổ
lớn,vũ trụ
được hình thành.Hiện nay nó
đang giãn nở và loãng dần.
BIÊN ĐỘ NHIỆT ĐỘ : khoảng chênh
lệch giữa nhiệt độ cực tiểu và nhiệt độ cực đại ghi đượ trong một khoảng thời
gian (một ngày, một tháng, một năm...). Ví dụ :
ở một địa phương, nhiệt độ cực tiểu và cực đại trong một ngày đêm là 280C
và 330C, chúng ta nói : biên độ nhiệt độ trong ngày hôm đó là 50C,
ở một địa phương khác, nhiệt độ cực tiểu
và cực đại trong một tháng là: 180C
và 250C , chúng ta nói : biên độ nhiệt độ trong tháng đó là :
70C vv...
BIÊN GIỚI : đường ranh giới
phân chia lãnh thổ có chủ quyền của quốc gia này với quốc gia khác.
Biên giới quốc gia bao gồm : đường biên giới trên
đất liền ,đường biên giới trên biển và đường
biên giới
trên không. Đường biên giới trên đất
liền được vạch ra trên cơ sở thoả thuận giữa các
quốc gia có
lãnh thổ tiếp giáp, kề nhau. Đường biên giới quôc gia trên đất liền thường dựa
vào
các yếu tố tự
nhiên như: địa hình (sống núi, dải đồi, thung lũng...), thuỷ văn (dòng chảy của
sông, suối,...) hoặc theo các đường quy ước như các
đường thẳng nối các điểm mốc, các đường
kinh tuyến, vĩ tuyến vv...Đường biên giới
trên biển là ranh giới phía ngoài của vùng lãnh hải
của quốc gia đó được quy định đúng theo luật pháp và
tập quán quôc tế . Trong điều kiện lãnh
hải của
các quốc gia kề nhau hoặc đối diện có sự
chồng lấn lên nhau, thì đường biên giới
trên
biển sẽ
được hoạch định thông qua thương lượng
giữa các bên có liên quan. Còn đường
biên
giới trên
không là đường chiếu thẳng từ biên giói
trên đất liền và trên biển lên không (
đến một
độ cao nào,
thì hiện nay chưa có một văn bản pháp lí nào quy định rõ).
BIẾN CHẤT : hiện tượng thay
đổi tính chất ( cả về mặt vật lí và hoá học) của các loại đá măcma và trầm tích
thường trong điều kiện có nhiệt độ cao và áp lực lớn. Đièu kiện này chỉ có thể
xảy ra khi các lớp đá bị vùi sâu trong lòng đất hoặc nằm cạnh các lò măcma
nóng chảy của núi lửa.
Một số loại đá biến chất thưòng gặp là: đá gơnai, đá
hoa,đá phiến thạch mica vv....
BIỂN : bộ phận của đại
dương, nằm ở gần hoặc xa đất liền,, nhưng có những đặc điểm riêng, khác
với vùng nước của đại dương bao quanh (như về
nhiệt độ, độ mặn, chế độ thuỷ văn, các vật liệu
trầm tích đáy, các sinh vật vv...). Theo thói
quen, thuật ngữ biển còn dùng để gọi
những hồ có
diện
tích rất lớn như: biển Aran, biển Caxpi,
biển Chết vv...Tuỳ theo vị trí (nằm ở
ven bờ hoặc
ăn sâu
vào các lục địa) mà biển lại phân ra:
biển ven bờ, biển nội lục hoặc biển kín .... Biển ven
bờ là những biển nằm sát ngay bờ các lục địa . Phần lớn
các biển này đều rộng, nông, có chế độ
thuỷ văn
riêng và thường mở rộng ra đại dương.
Cũng có khi phía ngoài bi ển có đảo hoặc quần đảo
ngăn cách với đại dương như: biển Nhật
Bản, biển
Măngsơ...Biển nội lục hoặc biển kín là những biển nông,nằm lõm sâu vào các lục
địa,
chỉ thông với
đại dương nhờ những eo biển hẹp như Biển
Đen, biển Bantich vv...Đặc biệt, cũng
có biển nằm giữa đại
dưong,nhờ có tính độc đáo về sinh vật như: biển Xacgat với rừng tảo nổi
ở giữa
Đại Tây Dương......
BIỂN THOÁI : hiện tượng nước
biển rút ra xa bờ lục địa, làm cho diện tích đất liền tăng lên. Nguyên nhân
của hiện tượng này có thể là do mực nước của đại dương thế giới hạ thấp
xuống hoặc do sự vận động nâng lên của
lục địa. Hiện tượng này trái ngược với hiện tượng biển tiến. Hiện tượng biển
tiến và thoái là những quá trình xảy ra rất chậm chạp, lâu dài và kế tiếp nhau trong suốt quá trình phát triển
của các lục địa.
BIỂN TIẾN : hiện tượng nước
biển tràn vào đất liền, phủ ngập các vùng đất thấp ven biển do
nguyên nhân lục địa dần dần bị hạ thấp hoặc do mực
nước biển dâng cao trong quá trình tan
băng trên
các lục địa. Biển tiến là hiện tượng ngược lại với biển
thoái.
BIỂU ĐỒ : hình thức trực quan hoá các số liệu thống kê trong các
mối quan hệ giữa số lượng,thời
gian và không gian bằng các cấu trúc đồ hoạ. Ví
dụ: biểu đồ cơ cấu các ngành công nghiệp,
biểu đồ
phát triển dân số thế giới, biểu đồ mật
độ dân số, biểu đồ phân bố dân cư vv....
Về hình
thức biểu hiện, biểu đồ có các loại : hình tròn, hình cột, hình vuông, đường
biểu
diễn vv...
BÌNH NGUYÊN : loại địa hình thấp,rộng, bề mặt tương đối bằng phẳng,
đôi khi có xen đồi hoặc
gợn sóng. Độ cao trên mực nước biển không quá
200m là bình nguyên thấp hay vùng đất thấp.
Từ 200m đến 500m
là bình nguyên cao hay vùng đất cao, trên 500m mà bề mặt vẫn tương đối
bằng phẳng và có sườn dốc là cao nguyên.( Cách phân loại trên đây phù hợp
với các loại địa
hình bị băng hà bào mòn ở ôn đới . Đối với các loại
địa hình ở nhiệt đới có lẽ về mặt hình thái
và độ
cao có khác, nhưng chưa được nghiên cứu
kĩ).
BÌNH SƠN NGUYÊN : bộ phận rộng lớn
của địa hình miền núi, có bề mặt tương đối bằng phẳng,
đôi khi gợn sóng và bị nhiều thung lũng sâu cắt xẻ.
Độ cao từ 500 đến 1000m. Thuật ngữ bình
sơn nguyên
ít được sử dụng trong các tài liệu địa lí. Phần nhiều nó được thay thế
bằng thuật
ngữ cao
nguyên. Ví dụ : cao nguyên Trung Xibia, cao nguyên Iran
vv...Thực ra, khái niệm cao
nguyên có
khác với bình sơn nguyên ở chỗ : cao nguyên bao giờ cũng có
sườn rất dốc, còn
bình sơn
nguyên thì không.
BIÔTIT : khoáng vật silicat màu đen, thành phần gồm có các ôxyt
silic, nhôm, sắt, mangan và kali.
Còn gọi là mica
đen.
BOM NÚI LỬA : khối dung nham đặc quánh hoặc đã đông cứng ( có đường
kính tới vài mét) ở
miệng núi lửa bị đẩy bật lên không trung, kèm theo
tiếng nổ khi núi lửa hoạt động.
BORA : loại gió lạnh,
mạnh như gió bão thường xuất hiện trong những thánh mùa đông ở các
vùng bờ biển
gần các dãy núi cao ven Hắc Hải và Địa Trung Hải. Nguyên nhân chủ yếu là do sự
chênh lệch
khí áp đột ngột giữa biển ( khí áp thấp)
và lục địa ( khi áp cao). Khi gió Bora thổi,
thường đem theo mưa tuyết lớn, kéo dài tới vài ngày.
BÓC MÒN : ( denudation)
hiện tượng phá huỷ các loại đất đá do ngoại lực (nước, băng hà, gió v.v...)
bằng cách bóc dần từng lớp mỏng trên mặt và vận chuyển các sản phẩm phong hoá
đi nơi khác.
BÓN LÓT, BÓN PHÂN LÓT : biện pháp kĩ
thuật trong nông nghiệp được thực hiện bằng cách bón phân trước khi gieo hạt
hoặc trồng cấy các cây trồng, nhằm mục đích cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng
cho thực vật trong giai đoạn đầu của quá trình sinh trưởng.
BÓN THÚC, BÓN PHÂN THÚC : biện pháp kĩ
thuật nông nghiệp được thực hiện bằng cách bón
thêm phân,
chuẩn bị cho thực vật bước vào một giai đoạn quan trọng của quá trình sinh
trưởng,
nhằm đẩy mạnh việc nâng cao năng suất. Ví dụ : bón
thúc cho cây để chuẩn bị cho giai đoạn ra
hoa, kết quả vv...
BÓNG THÁM KHÔNG : bóng bơm loại khí nhẹ, dùng trong các trạm nghiên cứu
khí tượng để thả
lên các tầng
khí quyển trên cao. Bóng thường mang theo một máy phát vô tuyến để chuyển về
mặt đất những thông tin về tình trạng của các yếu tố
khí tượng trên cao như : nhiệt độ, khí áp,
gió vv...
BÔXIT : loại đá trầm tích có màu hồng, nâu vv...Thành phần chủ
yếu gồm có : hyđrôxit nhôm lẫn
với các chất khác như : sắt, silic ...Từ bôxit có
thể tách ra chất alumin ( Al2O3), nguyên liệu
chính để
luyện nhôm trong các lò điện phân.
BỒI TÍCH : tác động bồi đắp
và tích tụ phù sa của một con sông. Bồn địa :
địa hình trũng, thấp,
dạng chậu hoặc lòng chảo, hình thành do kết quả
của nhiều quá trình địa chất như : sự
sụt lún
của một bộ phận vỏ Trái Đất, sự bào mòn của băng hà
vv...Bồn địa thấp nhất trên bề mặt Trái
Đất là
bồn địa Tuôcphan , nằm ở phía đông dãy
Thiên Sơn thuộc đất Tân Cương, Trung Quốc
(154m
dưới mực nước biển). Có những bồn địa bị
ngập nước, tạo thành các hồ như : hồ Caxpi,
hồ Aran vv...
Bồn địa còn gọi là vùng trũng.
BỜ BIỂN : dải đất tiếp xúc
với mép nước biển và chịu tác động qua lại giữa biển và đất liền. Phạm
vi của dải bờ biển được giới hạn trên đất liền ở
chỗ mực nước biển tràn vào xa nhất
khi thuỷ
triều lên hoặc khi có gió bão, còn ở
ngoài biển là khoảng nước, mà tác động của
sóng không
còn ảnh hưởng gì đến đáy biển.
BỜ LỤC ĐỊA : bộ phận của rìa lục địa tương đối bằng phẳng, nằm ở
phía ngoài dốc lục địa, có độ
dốc trung
bình khoảng trên dưới 1/300, rộng từ 100 đến 1000km., và chấm dứt ở một vùng
có độ sâu từ
2000 đến 5000m. Ngoài bờ lục địa là đáy
đại dương.
BUA : (Boers) dân tộc sinh sống ở Nam Phi, vốn là dòng dõi
những người dân gốc Hà Lan di
cư đến
đây vào giữa thế kỉ 17. Đã lập nen hai quốc gia : nước Cộng hoà Tranxvan
và nước tự trị
Ôrêngiơ.
BỤI TINH THẠCH : ( Bụi vũ
trụ) khối vật chất nhỏ, rải rác trong không gian vũ trụ với mật
độ
tập trung
thấp. Giả thuyết về sự hình thành Trái Đất của O. Xmit đã cho rằng : Trái Đất
là một
thiên thể được hình thành từ một đám mây bụi tinh
thạch. Những hạt bụi này, khi bị sức hút
của
Trái Đất, rơi
vào lớp khí quyển, bốc cháy sáng rực, trở thành các ngôi sao sa.
BÙN LỤC NGUYÊN : bùn trầm tích ở
thềm lục địa có nguồn gốc từ những vật liệu trên lục địa, bị
xâm thực
và bị cuốn trôi xuống biển theo các dòng chảy.
BÙNG NỔ DÂN SỐ : sự phát triển
dân số vượt bậc về số lượng đã xảy ra ở các nước châu Âu vào
thế kỉ 19, khi tỉ lệ sinh vẫn không thay đổi, nhưng
tỉ lệ tử giảm xuống rất thấp, nhờ những tiến
bộ về y tế,
và nhờ việc cải thiện những điều kiện sinh hoạt.
Hiện
nay, hiện tượng bùng nổ dân số vẫn đang xảy ra, chủ yếu trong các nước đang
phát triển
ở châu Phi,
châu A và châu Mĩ Latinh.
BỨC XẠ : quá trình toả
năng lượng của một vật thể. Bức xạ mặt trời là quá trình toả năng lượng
của Mặt Trời ra khoảng không gian vũ trụ. Một phần
xuống đến mặt đất dưới hình thức nhiệt
năng, làm cho
mặt đất nóng lên. Mặt đất ban ngày tiếp
thu được nhiệt năng của Mặt Trời, ban
đêm lại bức xạ ra không trung, rồi dần dần lạnh đi.
BƯNG : (miền
Nam) chỗ đất trũng giữa cánh đồng, mùa khô không có nước đọng, mùa mưa thì nước
đọng khá sâu và có cỏ lác mọc. Mùa nước ở bưng thường có rất nhiều cá đồng.
HLTcoffee.com