Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (G)
Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (G)
G
GATT
:
thuật ngữ viết tắt của: "General Agreement on Tariffs and Trade"
chỉ hiệp ước chung về
thuế quan và thương mại của gần
100 nước trên thế giới, chiếm trên 90% tổng giá trị buôn
bán quốc tế. Mục tiêu của hiệp ước này là
từng bước xoá bỏ các hàng rào bảo hộ mậu dịch,
nhằm thiết lập một nền thương mại tự do.
Là một hiệp ước về thương mại, nhưng
đồng
thời cũng là một cơ quan tiến hành các
cuộc đàm phán đa phương về thương mại và là diễn
đàn thảo luận về những vấn đề mậu dịch
quốc tế.
GẤU ĂN MẶT TRỜI
: cách gọi hiện tượng nhật thực trong
dân gian . X. Nhật thực
GẤU ĂN TRĂNG
: cách gọi hiện tượng nguyệt thực trong
dân gian . X. Nguyệt thực
GẤU TRÚC
(
panda) loài thú ăn thịt, sinh sống ở Himalaya ,
có thân hình khá lớn, dài tới 1,5m
và nặng từ 120 đến 135kg. Gấu trúc có
lông màu đen pha trắng, là động vật quý, hiếm, có
trong danh sách các loài thú được bảo vệ
của thế giới. Còn thấy ở vùng núi phía tây Trung Quốc.
GÂYDE
: (geyser)
thuật ngữ có gốc từ tiếng địa phương, chỉ các nguồn phun nước nóng
tự nhiên,
hoạt động
theo chu kì. Có những nguồn phun theo chu kì cố định, nhưng cũng có
những nguồn
phun theo chu kì không cố định. Các
gâyser được hình thành chủ yếu ở những vùng có núi lửa
hiện đại ( doc theo các vùng có những đứt gãy kiến tạo, theo các dãy núi
trẻ...). Các gâyser được
phân bố nhiều ở Hoa Kì, trong khu
vực vườn quốc gia Ienlâuxtôn ( có tới
200 cái), ở bán đảo
Camchatca thuộc Liên bang Nga ( gần 100
cái), ở Aixơlen ( khoảng 30 cái) và ở Niu Ailen.
GDP
: giá trị tổng sản lượng của các ngành kinh tế
quốc dân hoạt động ở trong nước,bao gồm cả
giá trị
sản lượng của các tổ chức kinh
tế nước ngoài, hoạt động trên lãnh thổ
quốc gia.
GIA TĂNG DÂN SỐ : quá trình phát triển số dân trên một lãnh
thổ, một quốc gia hoặc trên toàn
thế
giới, trong một thời gian nhất định ( thường tính từ 1 năm trở lên). Sự
gia tăng dân số có thể
dương, nếu số dân sau một thời gian nhất định, tăng hơn số dân
trước đó. Nếu số dân giảm đi,
thì
sự gia tăng dân số là âm. Sự gia tăng dân số là tương quan tỉ lệ, tính bằng phần trăm (%)
(có tài liệu tính bằng phần nghìn) giữa
số người tăng lên ( hoặc giảm đi) so với số dân ở thời
điểm trước đó. Ví dụ: số người tăng lên
trong một năm là 4.000 người so với số dân có trước đó
là 200.000 người. Tỉ suất gia tăng dân số
là : 2%. X. thêm : Tỉ suất gia tăng dân số.
GIAO THÔNG VẬN TẢI : ngành sản xuất độc đáo, tuy không trực tiếp
làm ra sản phẩm, nhưng
phục vụ
đắc lực cho việc lưu thông, vận
chuyển các nguyên liệu, hàng hoá từ nơi sản xuất đến
nơi tiêu thụ. Ngành giao thông vận tải
chia ra : ngành giao thông vận tải đường bộ ( gồm có giao
thông bằng ô tô và đường sắt), đường thuỷ
(gồm giao thông đường sông, đường biển) và đường
không. Ngành giao thông vận tải đòi hỏi phải có nhiều công trình xây dựng
đường sá, bến cảng
và nhiều loại phương tiện khác nhau, từ thô sơ đến hiện đại.
GIÁO HỘI LA MÃ :
(giáo hội Rôma) tổ chức tôn giáo của đạo
Kitô có trụ sở ở Rôma ( toà thánh
Vaticăng). Từ thế kỉ III sau CN, đạo Kitô đã trở thành chính
giáo của đế quốc La Mã. Sau đó,
được
chia thành hai phái từ giữa thế kỉ XI, ở phía Tây Âu là đạo Thiên Chúa,
phụ thuộc vào
giáo hội La Mã, còn ở phía Đông Âu là đạo
Chính thống hay Chính giáo.
GIECMANH
:
1- Các tộc người thuộc nhóm Ân-Âu, hiện sinh sống ở Tây Âu, Trung Âu và Bắc
Âu.
2- Nhóm ngôn ngữ của
các bộ tộc Giecmanh, nguồn gốc của tiếng Anh, tiếng Đức,
tiếng Đan Mạch và các ngôn ngữ Bắc Âu.
GIÊÔIT
: X.
Địa cầu thể.
GIÊXU
: tên phiên
âm Jesus Christ, nguồn gốc của từ
Gia Tô (đạo Gia Tô).
GIẾNG PHUN : giếng trong các thung lũng miền núi, nơi có
các nguồn cung cấp nước mạch nằm
ở độ
cao đáng kể so với mặt giếng. Nước trong giếng, vì chịu áp suất,
nên thường xuyên phun
ra
ngoài thành cột nước cao ( theo nguyên tắc bình thông nhau).
GIÓ : hiện tượng chuyển động của không khí theo
chiều ngang, từ nơi có khí áp cao về nơi có khí
áp
thấp. Mức chênh khí áp càng lớn, gió càng mạnh. Trên bề mặt Trái Đất,
những vành đai khí
áp cao và khí áp thấp được phân bố theo
quy luật, do đó có các vành đai gió thường
xuyên cấp
hành tinh
như : tín phong, gió Tây...Các loại gió khác được coi là gió địa
phương như : gió
mùa, gió Phơn, gió Bora vv...
Sức mạnh của gió được tính bằng tốc
độ (km/h) theo thang đo gió 12 cấp ( thang Bôpho)
Cấp
Tốc độ gió (km/h)
Từ
1 đến 4
Từ 6 đến
26
" 4
" 6
" 26 " 44
" 6
" 8
" 44 " 65
" 8
" 10
" 65 "
90
" 10
" 12
" 90 " trên 120
GIÓ BIỂN, GIÓ ĐẤT : gió địa
phương có tính chất thường xuyên, thổi ở vùng bờ biển, ban ngày
từ ngoài khơi vào bờ, ban đêm từ đất liền ra biển.
Nguyên nhân sinh ra loại gió đất - gió biển là
sự thay đổi luân lưu khí áp ngoài biển và trong đất liền, giữa ngày và đêm. Ban ngày, nhiệt độ
không khí trong đất liền cao hơn ngoài biển. Không khí nóng bốc lên cao, không khí ở
biển
lạnh hơn, tràn vào thay thế.
Ban đêm, không khí ngoài biển nóng
hơn trong đất liền ( vì không
khí trong đất liền bị lạnh
đi nhanh hơn), nên bốc lên cao, không khí trong
lục địa lại tràn ra thay
thế. Loại gió này cũng có cả
ở các vùng ven bờ các hồ lớn ( ở vùng
nhiệt đới và vĩ độ trung
bình).
GIÓ LÀO : loại gió khô, nóng ở nước ta,
trong mùa hạ thổi từ phía tây dãy Trường Sơn sang,
nên có tên là gió Lào.
X. Gió Phơn.
GIÓ LỐC : gió thổi xoáy vòng tròn, rồi bốc lên cao,
cuốn theo đất, đá, cát bụi, thường xảy ra trong
các buổi chiều mùa hạ có nắng nóng. Gió lốc sinh ra khi có
hai luồng không khí di chuyển trái
chiều, với tốc độ lớn gặp nhau. Những cơn lốc mạnh nhiều khi gây thiệt
hại đáng kể như : làm
đổ cây cối, làm hư hỏng nhà cửa, phá hoại vườn tược, mùa màng v.v...
GIÓ MẶT TRỜI : thuật ngữ
chỉ sự bức xạ các hạt phôtôn,
prôtôn, êlectrôn, anpha...của Mặt Trời
ra xung quanh.
GIÓ MẬU DỊCH : ( trade
wind) gió thường xuyên , cấp hành tinh.
Gọi là mậu dịch, vì xưa kia nó
đã giúp các thuyền buồm đi lại trên mặt biển,
tiến hành các hoạt động buôn bán, trao
đổi
hàng hoá giữa các lục địa. X.
thêm : Tín phong .
GIÓ MIXTRAN : loại gió địa phương, thổi dọc theo các thung lũng ở
vùng trung và hạ lưu sông
Rôn ( Pháp), theo
hướng từ bắc hoặc tây-bắc xuống nam, tốc độ khoảng 100km/h. Ơ một
vài nơi có thể tới 150km/h.
GIÓ MÙA : loại gió thổi trên những vùng rộng lớn của
các lục địa A, Phi và Ôxtrâylia theo mùa
( chủ yếu trong các mùa hạ và đông). Nguyên nhân sinh ra gió
mùa rất phức tạp. Ở đây có ảnh
hưởng rất rõ rệt của sự tác
động qua lại giữa lục địa và đại dương, giữa các khối khí di chuyển
theo hướng tín phong ở hai
bán cầu và cả của những dạng địa hình lớn như các khối núi và cao
nguyên đồ sộ ở Trung Á, Tây Tạng vv...Khu vực có
gió mùa điển hình là Ấn Độ và Đông Nam
Á. Ở châu Á, về mùa đông có
gió mùa đông bắc, về mùa hạ có gió mùa tây nam và đông nam.
Mùa đông nói chung khô khan, còn mùa hạ nhiều mưa.
Ở châu Phi, gió mùa có
cả ở Đông Phi và Tây Phi, mùa đông có gió khô hanh từ hoang mạc
thổi ra, mùa hạ có gió tây nam đem theo nhiều mưa. Ơ Đông
Phi do lục địa được phân bố đều ở
cả hai bán cầu, cho nên hai loại gió mùa : mùa đông và mùa hạ đều
không đem mưa tới. Mưa
chỉ có vào các thời kì chuyển mùa.
GIÓ NÚI, GIÓ THUNG LŨNG : loại gió địa phương ở vùng núi, ban ngày thổi
từ các thung lũng
lên cao theo sườn
núi, còn ban đêm lại từ các sườn núi cao thổi xuống thung lũng. Nguyên
nhân chủ yếu là do ban ngày, không khí trong thung lũng bị
hun nóng, nở ra nhiều hơn. Không
khí trên các sườn núi, tạo thành những luồng gió trườn lên
cao. Ban đêm có hiện tượng ngược
lại với ban ngày.
GIÓ PHƠN : thuật ngữ có gốc tiếng Đức, chỉ loại gió địa
phương, thổi vượt qua núi, từ sườn bên
này qua sườn bên kia. Khi vượt núi có hiện tượng ngưng tụ
hơi nước và mưa do không khí càng
lên cao, càng hoá lạnh. Cứ lên cao 100m, không
khí ẩm lại giảm đi 0,6o C . Khi vượt qua đỉnh
núi, không khí trở nên khô,
bị dồn nén xuống thấp, cứ 100m tăng lên 1o C . Kết cục, khi xuống
đến chân núi, trở thành một
loại gió rất khô và nóng. Ví dụ : không
khí khi phải vượt qua một
dãy núi cao 2.000m, nếu ở chân núi, nơi xuất phát,
nhiệt độ của không khí là 25o C, thì khi lên
đến đỉnh núi, không khí đã giảm đi : (0,6o x 2000) : 100 = 12o
C , nhiệt độ chỉ còn 13o C . Khi
xuống núi, không khí tăng
lên : ( 1o x 2000) : 100 = 20o
C . Như vậy, sau khi vượt qua núi,
không khí đã trở nên khô và nóng tới : 13o + 20o
= 33o C . Loại gió nóng, khô thổi trong mùa hạ
từ sườn tây sang sườn đông
dãy Trường Sơn nước ta, chính là loại
gió Phơn mà nhân dân ta quen
gọi là gió Lào.
GIÓ TÂY ÔN ĐỚI : loại gió cấp
hành tinh, xuất phát từ các khu cao áp cận nhiệt đới, thổi tương
đối thường
xuyên và gần như quanh năm về
phía các vùng cực. Theo sự chuyển động biểu kiến
của Mặt Trời, về mùa đông, giới hạn phía nam của khu vực có gió
Tây ở bán cầu Bắc lùi xuống,
lấn cả vào khu vực Địa Trung
Hải và vùng lặng gió chí tuyến, làm cho
các khu vực này có mưa
(vào mùa đông). Về mùa hạ,
giới hạn của khu vực có gió Tây lại tiến
lên phía bắc, vì vậy ở bán
cầu Bắc, chỉ có khu vực từ
vĩ tuyến 35o B trở lên, mới có gió
Tây thổi quanh năm. Tình hình ở
bán cầu Nam cũng tương tự như vậy. Sở dĩ gọi là gió
Tây, vì hướng chủ yếu của loại gió này
là
hướng Tây ( thực ra, ở bán cầu Bắc là tây-nam, còn
ở bán cầu Nam là tây-bắc). Ơ bán cầu
Bắc,
gió Tây có hướng hay thay đổi và cường độ không ổn định. Thậm chí, ở châu Âu, có lúc gió
Tây chuyển hướng thành gió Đông, vì vậy trongkhu vực có
gió Tây thổi, về mùa đông, thời tiết
chuyển biến rất phức tạp.
Các khu áp thấp và áp cao luôn
luôn thay thế nhau. Ơ bán cầu Nam,
gió Tây phần lớn thổi trên mặt đại dương, nên tương đối ổn định và theo đúng quy
luật hơn.
GIỒNG : dải đất cao ở hai bên bờ sông (giống như những dải đê tự nhiên), hình
thành do các lớp
phù sa được bồi cao dần sau mỗi kì nước lũ tràn rồi rút đi. Ơ các
sông lớn, các giồng ở hai bên
sông là những nơi tụ tập
làng ,xóm, dân cư đông đúc.
GIỜ ĐỊA PHƯƠNG : giờ thực của các địa phương nằm trên cùng một
kinh tuyến, tính theo vị trí
của Mặt Trời.
Trên bề mặt Trái Đất không thể có bất cứ một địa phương nào nằm trên một
đường kinh tuyến khác (dù ở
phía Tây hoặc phía Đông) kinh tuyến nói trên, mà lại có giò
trùng với giờ này.
GIỜ G.M.T. :
giờ của kinh tuyến đi qua đài thiên văn
Grinuyt ở ngoại ô thành phố
Luân Đôn
( GMT = Greenwich Meridian
Time). Theo thoả thuận của Hội nghị quốc tế năm 1884, khu vực
có kinh tuyến Greenwich đi qua chính giữa, được coi là khu vực gốc, đánh số
0. Giờ của khu
vực này cũng được coi là giờ gốc để tính ra giờ của các khu vực khác. Giờ chuẩn được tính
theo
giờ ở khu vực có kinh tuyến
gốc đi qua chính giữa đó, gọi là giờ
G.M.T.
GIỜ KHU VỰC : giờ thống nhất cho toàn bộ tất cả các địa
điểm nằm trong một khu vực giờ. Giờ
này lấy theo giờ của kinh tuyến ở chính giữa khu vực. Trên
Trái Đất có tất cả 24 khu vực giờ.
Mỗi khu vực rộng 15o kinh độ, được đánh số
từ 0 đến 23. Khu vực giờ gốc là khu vực giờ có
kinh tuyến 0o đi qua chính giữa. Các khu vực khác được đánh
số tiến dần về phía đông. Nước ta
nằm trong khu vực giờ thứ 7
( có kinh tuyến 105o Đ đi qua
chính giữa). Những nước có lãnh thổ
rộng lớn như
Trung Quốc có 5 khu vực giờ, Liên bang Nga có 11 khu vực giờ v.v...
GIỜ PHÁP ĐỊNH : giờ thống nhất theo những quy định về luật
pháp của từng nước để tiện cho việc
quản lí hành
chính hoặc phục vụ cho những mục đích nhất định. Ví dụ : để tiết kiệm
năng
lượng, ở nhiều nước giờ mùa
hạ được quy định sớm hơn giờ thực một
giờ v.v...
GLÂY
: hiện tượng các ôxyt sắt ba (Fe2O3)
bị khử ôxy trong các loại đất ẩm thừa nước. Trong
điều kiện thiếu không khí, các ôxyt sắt hai ( FeO) hình thành, làm cho đất chuyển từ màu vàng
đỏ v.v... sang màu xám xanh.
GNP :
giá trị tổng sản lượng của các ngành kinh tế quốc dân hoạt động ở trong nước và
cả ở nước
ngoài.GOENRÔ : ( GOELRO) kế hoạch điện khí hoá đất nước do Uỷ ban quốc
gia về điện khí hoá nước
Nga đề ra vào năm 1920. Theo kế hoạch này thì nước Nga sẽ
cải tạo nền kinh tế cũ trên cơ sở kĩ
thuật mới, dựa vào kế hoạch điện khí hoá. Kế hoạch
đã được hoàn thành trong vòng 10 năm.
GOANACÔ : tên của giống Lama hoang dại ở
vùng núi Anđet thuộc Chilê (Nam Mĩ).
GÓC PHƯƠNG VỊ : góc hình
thành giữa hướng Bắc địa lí và hướng của đối tượng cần đo ngắm
ở một địa điểm
quan sát trên thực địa, hoặc trên bản đồ. Góc được đo bằng địa bàn và
tính
từ 0o đến 360o theo chiều thuận của kim đồng hồ.
GRAĐIÊNG ĐỊA NHIỆT : mức tăng nhiệt độ mỗi khi xuống sâu 100m trong lòng
đất (kể từ vùng
có nhiệt độ ổn định). Građiêng địa nhiệt không hoàn toàn như
nhau ở các địa điểm và các độ
sâu khác nhau.
GRANIT : (đá hoa cương) loại đá măcma
rất phổ biến trong lớp vỏ Trái Đất. Granit được hình
thành trong điều kiện mắcma
xâm nhập, chỉ lộ ra ngoài mặt đất khi lớp phủ trên mặt bị bào mòn
hết. Đá có cấu trúc tinh thể
dạng hạt thô. Thành phần chủ yếu gồm : thạch anh, phenxpat và
mica. Tỉ trọng khoảng 2,6.
HLTcoffee.com