Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (Đ)
Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (Đ)
Đ
ĐA CANH : chế độ khai thác đất đai bằng cách trồng nhiều loại
cây, thu nhiều sản phẩm khác nhau trên
cùng một diện tích.
ĐÁ : (
nham thạch) vật liệu có độ cứng ở nhiều
mức độ khác nhau, tạo nên lớp rắn của Trái Đất. Đá có thể được cấu tạo do một
loại khoáng thuần nhất như : đá hoa ( do canxit tạo thành) hoặc do
nhiều loại khoáng như : granit ( do
phenxpat, thạch anh và mica tạo thành). Cũng có loại đá được cấu tạo do sự gắn kết nhiều khối nhỏ của các loại đá
khác như : đá cuội kết, đá dăm kết
v.v... Tuỳ theo nguồn gốc, đá được phân ra 3 nhóm : đá măcma, đá trầm tích và
đá biến chất. Đá măcma được hình thành do quá trình đông đặc và nguội lạnh của
khối măcma nằm sâu trong lòng đất. Đặc
điểm của các loại đá măcma là có các tinh thể hình thành trong quá trình kết
tinh. Vì vậy, người ta cũng gọi loại đá
này là đá kết tinh hoặc đá hoả thành. Đá măcma lại phân ra hai loại : đá phún
xuất ( khi măcma trào ra ngoài mặt đất. Ví dụ: đá riôlit, đá badan...) và đá
xâm nhập ( khi măcma chưa lên tới mặt đất, còn nằm xen trong các lớp gần mặt
đất như : granit ...). Đá trầm tích được
hình thành do sự tích tụ các vật liệu
trầm lắng ở các đáy biển, đáy hồ v.v...Đặc điểm của đá trầm tích là có các lớp song song, nhiều khi khác nhau về màu sắc, về tính chất thô, mịn ( tuỳ theo
sự trầm lắng của các loại vật liệu khác
nhau, qua các thời kì), ví dụ : đá phiến, đá vôi v.v... Đá biến chất được hình thành do quá trình nóng chảy
và tái kết tinh của các loại đá măcma hoặc
trầm tích bị vùi trong các lớp
đất sâu, chịu áp lực lớn, nhiệt độ cao
hoặc nằm gần kề các lò măcma nóng chảy. Đặc điểm của đá biến chất là vừa có cấu trúc tinh thể,vừa có cấu trúc phân
lớp. Ví dụ : đá gơnai ( do granit biến
chất, đá hoa do đá vôi biến chất ...)
ĐÁ AXIT : đá có hàm lượng
ôxyt silic ( SiO2) tương đối cao ( từ 65% trở lên), ví dụ : đá
granit. Nếu hàm lượng ôxyt silic dưới
55% thì là đá kiềm hay đá badơ, ví dụ : đá badan. Nếu hàm lượng ôxyt silic từ
55% đến 65% thì đá được coi là trung
tính, ví dụ : đá điôrit...
ĐÁ BỌT : đá hình thành từ tro núi lửa, xốp, nhẹ, cứng,
thường được dùng làm đá mài. Đá bọt có
thể nổi trên mặt nước, do trong
cấu trúc có nhiều lỗ hổng chứa không khí.
ĐÁ CÁT : ( sa thạch) đá
trầm tích có thành phần chủ yếu gồm các hạt thạch anh gắn kết với nhau bằng
chất ximăng silic hoặc vôi. Đá cát được
dùng nhiều trong các công trình xây dựng, để lát đường hoặc làm đá mài dao.
ĐÁ GỐC : lớp đá còn
nguyên vẹn, chưa bị phong hoá, nằm ở tầng dưới cùng của phẫu diện thổ nhưỡng,
được kí hiệu là tầng D.
ĐÁ KIỀM : X. Đá axit.
ĐÁ LỞ : hiện tượng đá
tảng ở các sườn dốc bị tách ra, lăn từ trên cao xuống chân núi. Nguyên nhân
chủ yếu là do quá trình phong hoá lâu ngày đã làm cho lực liên kết các
khoáng vật trong đá giảm đi. Khi có chấn
động mạnh hoặc mưa lớn, từ các vết nứt nẻ, đá mất thăng bằng và lao xuống
chân núi do trọng lực. Hiện tượng đá lở thường gây ách
tắc đối với đường xá giao thông, phá
hoại cầu cống và ảnh hưởng cả đến sinh
hoạt của con người ở các miền núi.
ĐÁ MẸ : lớp đá bị vỡ
vụn, nhưng chưa bị phong hoá hoàn toàn, nằm ngay ở phía trên tầng đá gốc trong phẫu diện thổ nhưỡng. Lớp đá mẹ được kí hiệu là tầng C.
ĐÁ QUÝ : khoáng vật có
nhiều màu sắc đẹp, có độ trong và độ phản xạ ánh sáng cao, được dùng trong ngành mĩ
nghệ để làm các đồ trang sức cho phụ nữ
như : kim cương, ngọc xanh, ngọc đỏ ( rubis), ngọc lam vv...
ĐÁ RIÔLIT : loại đá măcma phún xuất, có thành phần tương tự như đá granit, nhưng có tinh thể nhỏ và
mịn hơn. Ví dụ : đá riôlit ở khối núi
Tam Đảo nước ta.
ĐÁ SỢI : X. Amiăng.
ĐÁ TAN : (talc)
đá có lớp mỏng, óng mềm. Thành phần chủ yếu là silicat manhê. Đá tan
thường gặp trong các loại đá phiến kết
tinh. Khi nghiền nhỏ thành bột, được dùng trong nhiều ngành công nghiệp, như : công nghiệp hoá chất ( chế tạo
cao su), công nghiệp giấy v.v...Bột đá tan cũng được dùng để chế phấn xoa rôm cho trẻ em.
ĐÀ ĐIỂUài : loài chim to ( có thể cao tới 2m,
nặng khoảng 100kg) sống thành từng đàn trong các xavan và
hoang mạc ở châu Phi, châu Uc. Đà
điểu có cánh ngắn, không bay được, nhưng nhờ đôi chân to,
khoẻ có thể chạy với tốc độ
40km/h.
ĐÀI NGUYÊN : X. Đồng rêu
ĐẠI : khoảng thời gian tương ứng với một giai đoạn
phát triển lâu dài của lịch sử Trái Đất và của giới hữu cơ. Trong lịch sử
địa chất, người ta chia ra 5 đại : đại
Thái Cổ (AR), đại Nguyên sinh ( PR), đại
Cổ sinh (PZ), đại Trung sinh (MZ)
và đại Tân sinh (KZ). Mỗi đại có thời gian kéo dài từ vài chục triệu
năm đến trên một nghìn triệu năm. Mỗi đại lại chia ra nhiều kỉ.
- Đại Thái cổ là đại cổ nhất trong lịch sử địa
chất của Trái Đất. Thời gian kéo dài khoảng 1.000 triệu năm
và cách đây khoảng 3.500 triệu năm. Các loại đá được hình thành trong
đại Thái cổ hiện biết ( tìm được ở Nam
Phi) có mức độ biến chất rất mạnh. Phần lớn chúng đều có tuổi trên 3.000 triệu
năm. Đây là thời kì xảy ra nhiều hiện
tượng xâm nhập và nhiều vận động kiến tạo lớn.
- Đại Nguyên sinh có thời gian kéo dài khoảng
từ 600 đến 800 triệu năm. Các loại đá
được hình thành trong đại này cũng là đá biến chất
mạnh, nhưng thường có mức độ kém hơn. Trong đại Nguyên sinh đã có các sinh vật đơn giản chưa có xương. Theo dự đoán của các nhà
địa chất, thì chỉ đến cuối đại Nguyên sinh các nhóm động vật có xương, mới xuất hiện (trừ nhóm động vật có xương sống).
- Đại Cổ sinh kéo dài vào khoảng 300 - 350
triệu năm. Trong đại này, giới sinh vật đã rất phong phú. Động vật có xương sống đã xuất hiện với các loài
cá và bò sát. Thực vật chủ yếu là các
loài tảo và dương xỉ. Đây cũng là thời kì hình thành nhiều mỏ than đá
lớn trên thế giới. Về kiến tạo, đã có các vận động tạo sơn Calêđôni và Hecxini. Đại Cổ sinh có 6 kỉ: Cambri, Oócđôvich, Silua, Đềvôn, Cacbon và Pecmi.
- Đại Trung sinh bắt đầu cách đây khoảng 230
triệu năm và kéo dài trong hơn 160 triệu năm. Đại này có 3 kỉ : Triat, Giura và
Crêta (Bạch Phấn). Trong đại Trung sinh, nhiều vùng trên thế giới có vận động tạo sơn. Mạnh nhất là vận động tạo sơn Kimmêri hay
Inđôxini ( cuối Triat, đầu Giura) xảy ra ở ven bờ Tây Thái Bình Dương. Vận động
tạo sơn này có vai trò quan trọng trong
việc hình thành địa hình khu vực Đông
Nam A, trong đó có nước ta. Giới
sinh vật trong đại này rất phong phú. Động vật có các loài khủng long,chim.
Các loài có vú cũng bắt đầu xuất hiện. Thực vật có : dương xỉ, cây lá kim và các cây hạt kín (bí tử).
- Đại Tân sinh bắt đầu cách đây 67 triệu năm và
còn kéo dài cho đến ngày nay. Đại này chia ra
3 kỉ : Palêôgen, Nêôgen ( còn gọi
là kỉ Đệ Tam) và Antrôpôgen ( kỉ Nhân sinh hay kỉ Đệ Tứ). Trong đại Tân sinh những biến đổi lớn trên bề mặt Trái Đất
đã tạo nên sự phân bố các lục địa
và đại dương như hiện nay. Vận động tạo
sơn mãnh liệt đã hình thành nên các núi lửa hiện đại và các hệ núi cao nhất
bên bờ Đông Thái Bình Dương ( trên châu Mĩ), ở Nam Âu ( Anpi) và ở châu
A ( Himalaya). Vào cuối Nêôgen, đầu kỉ
Đệ Tứ, khí hậu trên Trái Đất trở nên rất
lạnh đã làm cho băng hà lục địa phát triển, bao phủ nhiều vùng đất đai rộng lớn trên các lục địa Âu - A và Bắc Mĩ. Giới sinh vật đã phát triển gần giống như hiện nay. Con người cũng bắt đầu xuất hiện vào đầu kỉ Đệ Tứ.
ĐẠI DƯƠNG THẾ GIỚI : khoảng nước rộng lớn, nằm cả ở hai bán cầu,
chiếm tới 70,8% diện tích bề mặt Trái
Đất. Đại dương thế giới gồm có 4 đại dương, nối thông với nhau : Thái Bình
Dương ( 180 triệu km2), Đại Tây Dương ( 93 triệu km2), ấn
Độ Dương ( 75 triệu km2) và Bắc Băng Dương ( 13 triệu km2).
ĐẠI ĐỊA HÌNH : dạng địa hình
lớn, xác định kiểu địa hình của một bộ phận đất đai rộng lớn trên bề mặt Trái
Đất. Ví dụ : bình nguyên, cao nguyên, khối núi vv...
ĐẠI LỤC : khối đất liền lớn trên bề mặt Trái
Đất, xung quanh có biển và đại dương bao bọc. Đại lục có hai bộ phận : bộ phận
nổi trên mặt nước biển là bộ phận lớn nhất. Bộ phận nhỏ hơn, chìm dưới mặt nước là rìa lục địa, gồm có : thềm lục địa, sườn hay dốc lục
địa và bờ lục địa. Trên Trái Đất có 6
đại lục là : đai lục A - Âu, rộng 50,7 triệu km2, đại luc Phi rộng
29,8 triệu km2, đại lục Nam Mĩ
rộng 17,6 triệu km2,, đại lục Nam Cực rộng 14 triệu km2
và đại lục Ôxtrâylia rộng 7,6 triệu km2. Theo thuyết " lục địa
trôi" thì tất cả các đại lục trên bề mặt Trái Đất đều từ một đại lục thống
nhất ban đầu tách ra, trôi giạt theo các hướng khác nhau. Hiện nay, quá trình
trôi giạt của các đại lục này vẫn còn tiếp diễn.
ĐẠI MẠCH : cây lương
thực, họ hoà thảo, mọc ở ôn đới, có hạt kết tụ thành bông, giống như bông lúa
mì, nhưng có râu dài hơn. Hạt đại mạch dùng làm lương thục cho người, cho gia
súc và dùng trong công nghiệp làm rượu bia.
ĐẠO CHÍNH THỐNG : ( Trực
giáo) một giáo phái từ Kitô giáo tách
ra. Từ năm 1504 đã trở thành một giáo
phái hoàn toàn độc lập. Quyền hành tối
cao nằm trong tay quốc vương. Đạo chính thống mang tính bảo thủ, huyền bí và
phi lí trong các giáo điều cũng như trong các tổ chức. Giáo hội chính thống vẫn tuân theo các giáo điều và
luật lệ cũ từ thế kỉ IV đến thế kỉ VIII, từ chối mọi đổi mới của giáo hội La Mã. Ví dụ: đạo chính
thống ở Nga từ chối không sử dụng lịch do Giáo Hoàng La Mã Grêgoa cải tiến, vì vậy khi Cách mạng
tháng 10 nổ ra vào ngày 7 tháng 11 năm 1917, thì lịch cũ của Nga mới là ngày 25 tháng 10 năm
1917.
ĐẠO CƠ ĐỐC : Cơ Đốc cũng như
Kitô là những phiên âm khác nhau của từ Christ trong Jesus Christ. X. đạo
Kitô
ĐẠO GIA TÔ : cũng là đạo
Kitô, do phiên âm từ đầu của tên Jesus Christ. X đạo Kitô.
ĐẠO HỒI : ( Hồi Giáo,
Islam) tôn giáo do Mohamet thành lập vào
thế kỉ VII trên bán đảo Arap. Trong các thế kỉ
IX và X đạo Hồi được truyền bá đến bán đảo Ân Độ vùng Địa Trung Hải và
vùng bờ biển châu Phi phía Đại Tây
Dương. Ơ châu A, từ khi các Hoàng đế Mông Cổ ngả theo đạo Hồi, đạo này được
truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc. Về sau,
người Thổ Nhĩ Kì lại truyền bá đạo Hồi
sang các nước Đông Âu sau khi
chiếm được thành phố
Côngxtantinôp. Hiện nay, đạo Hồi rất
thịnh hành ở các nước Tây Nam A, Bắc Phi, Inđônêxia. Do có ảnh hưởng từ
đạo Giuđa và đạo Kitô, đạo Hồi vừa là một tôn giáo, vừa là một nền văn hoá của người Arap. Kinh của đạo Hồi là
Coran. Tôn giáo này rất đơn giản trong lễ nghi cúng bái, chỉ thờ một vị thần : thánh Ala. Tuy nhiên,
giáo điều lại rất khắt khe. Hàng ngày tín đồ phải hành lễ, hướng về phía thánh địa Mecca. Mỗi năm
vào tháng 9 ( lịch Hồi giáo) tín đồ phải làm lễ nhịn ăn trong 1 tháng. Đây cũng là tôn giáo mà hàng năm có những cuộc hành hương đông đảo của
tín đồ về thánh địa Mecca.
ĐẠO KI TÔ : ( đạo Cơ Đốc,
đạo Gia Tô) tôn giáo xuất hiện vào đầu
Công nguyên. Từ thế kỉ III trở thành
quốc giáo của La Mã và là một trong
những tôn giáo có nhiều tín đồ nhất thế giới ( khoảng trên 150 triệu). Theo
giáo lí của nhà thờ, Chúa Giêxu là người sáng lập ra đạo Kitô. Do sự khác
biệt về kinh tế, chính trị và văn hoá
giữa Đông và Tây La Mã nên đạo Kitô dần dần tách ra thành 2 giáo phái chính : đạo Thiên Chúa ở phía Tây
và đạo chính thống ở phía Đông. Sự phân
chia này kết thúc vào năm 1654. Từ đầu thế kỉ 16, xuất hiện thêm giáo phái
thứ ba là đạo Tin Lành hay đạo Kitô mới.
ĐẠO PHẬT : (Phật Giáo) tôn giáo bắt nguồn ở Ân Độ từ 600 năm trước
Công nguyên. Tuy nhiên hiện nay vị
trí của đạo Phật ở Ân Độ lại không mạnh
bằng ở một số nước khác như : Nhật Bản, Trung Quốc ( Tây Tạng), bán đảo Trung
ấn. Đạo Phật lấy lòng từ bi, cứu người làm mục tiêu, phản đối sự phân chia và phân biệt đẳng cấp trong xã
hội.
ĐẠO THIÊN CHÚA : (Công
Giáo) một giáo phái của đạo Kitô ở Tây
Âu. Đứng đầu giáo hội là Giáo hoàng La
Mã, đồng thời là người đứng đầu toà thánh Vaticăng. Đạo Thiên Chúa tin vào đức
thánh Cha ( người sáng tạo ra thế giới)
, công nhận quyền tuyệt đối của Giáo hoàng .
ĐẠO TIN LÀNH : một giáo phái
thuộc đạo Kitô, xuất hiện trong thời kì Cải cách tôn giáo vào đầu thế kỉ XVI, chống đối lại giáo hội La Mã, không công
nhận các thánh, thiên thần và phủ nhận việc thờ Đức Mẹ. Điều đặc biệt lớn nhất
là họ không cần thông qua nhà thờ và giới tu sĩ để liên hệ với Thượng Đế, mở đầu cho sự yêu cầu tự do, dân
chủ tư sản và phát triển cá nhân của giai cấp tư sản. Việc thờ cúng vì vậy được đơn giản
hoá. Đạo Tin Lành có 3 nhánh nhỏ : một nhánh truyền bá ở Đức và các nước Bắc Âu, nhánh thứ hai
truyền bá ở Pháp, Thuỵ Sĩ, Hà Lan,
Xcôtlen và Hoa Kì. Nhánh thứ ba truyền bá ở Anh.
ĐẢO : bộ phận đất
nổi,nhỏ hơn lục địa, xung quanh có nước biển và đại dương bao bọc. Đảo có
thể đứng lẻ loi, riêng biệt hoặc tụ họp
thành quần đảo. Về nguồn gốc hình thành, đảo có thể là một bộ
phận của đất liền bị tách ra do hiện tượng sụt lún của lục địa ( Ví dụ :
đảo Mađagaxca, Calimantan, Grơnlen vv...) hoặc có thể do dung nham của núi lửa
phun ngầm ở dưới đáy biển, đại dương tạo
thành ( các đảo trong quần đảo Haoai
trong Thái Bình Dương, đảo Xanh Hêlen trong Đại Tây Dương vv...) hoặc
cũng có thể do san hô tạo thành ( các đảo thuộc quần đảo Macsan trong Thái Bình
Dương vv...).
ĐẦM LẦY : bộ phận đất
trũng thấp, có độ ẩm quá thừa, vì vậy nước thường xuyên đọng lại thành lớp trên
mặt, bên dưới là một lớp than bùn. Lớp phủ thực vật chủ yếu là các loại cây ưa
ẩm. Đầm lầy được phân bố ở khắp nơi trên bề mặt Trái Đất, đặc biệt phổ biến là
ở đới đồng rêu.
ĐẬP : công trình xây
dựng chắn ngang một dòng sông hoặc một eo biển nhằm mục đích làm cho mực nước ở phía trên được nâng cao. Các đập
thường được xây dựng chủ yếu để phục vụ cho tưới tiêu trong nông nghiệp, khai
thác thuỷ năng phát điện và giao thông vận tải.
ĐẤT BẠC MÀU : đất đã bị giảm
độ phì nhiêu do có tỉ lệ mùn và chất dinh dưỡng thấp. Thành phần cơ giới chủ
yếu là các hạt cát thô và mịn, có màu xám sáng, vì vậy có tên : đất bạc màu.
Đất bạc màu thường thấy phổ biến ở miền trung du nước ta, hình thành trên vùng
phù sa cổ.
ĐẤT CHUA : đất có phản ứng
axit, độ pH thấp hơn 7 ( ở tầng canh tác). Nguyên nhân chủ yếu là do đất được
hình thành ở những vùng đá gốc chua hoặc đã trải qua một quá trình lâu dài rửa
trôi các chất kiềm. Mức độ chua được
biểu hiện ở độ pH như sau : nếu từ 5,5 đến 6,5 là chua ít; từ 4,5 đến 5,5 là chua; từ 3 đến 4,5 là chua nhiều; dưới 3 là rất chua. Nếu đất có độ pH =
7 là đất trung tính, trên 7 là đất kiềm.
ĐẤT ĐEN : đất có màu xẫm
hoặc đen, chủ yếu do tỉ lệ mùn cao. Thông thường, thuật ngữ dùng để chỉ đất
Checnôdiom hình thành ở vùng thảo nguyên ôn đới khô ( ở Đông Âu). Tuy
nhiên, không phải chỉ có Checnôdiom mới có màu đen mà cả đất vùng preri (Bắc
Mĩ), đất macgalit cũng có màu đen. Tuy
về nguồn gốc phát sinh và tính chất các loại đất này có khác
nhau, nhưng đất đen thường có độ
phì cao vì có lượng mùn khá lớn.
ĐẤT ĐỎ : tên gọi chung
của các loại đất màu đỏ, vì có tỉ lệ thành phần ôxyt sắt (Fe2O3)
cao. Đất đỏ được hình thành phổ biến ở các vùng nhiệt đới
và cận nhiệt đới. Có nhiều loại đất đỏ khác nhau như : Pheralit, Latêrit, Tera Rôtxa, Rendin
vv...
ĐẤT HẠT GIẺ : đất có màu nâu
nhạt ở các vùng thảo nguyên khô, có lượng mùn thấp : từ 2 đến 5%. Đất hạt giẻ khá phì nhiêu, nếu có lượng
ẩm đầy đủ.
ĐẤT KIỀM : (đất badơ) đất có độ pH trên 7 . X. thêm :
đất chua.
đất mặn : đất có
chứa một tỉ lệ muối cao, thường gặp ở các vùng hoang mạc ( nơi có độ bốc
hơi mạnh, làm cho lượng muối hoà tan
trong dung dịch đất đọng lại trên mặt đất) hoặc ở các vùng đất thấp ven biển, ven các cửa sông, nơi còn chịu ảnh hưởng rõ rệy của thuỷ
triều.
ĐẤT PHÈN : đất chua mặn ở
nhiệt đới và cận nhiệt đới phát triển trên các vùng đất thấp của đồng bằng châu
thổ. Nguyên nhân hình thành loại đất này có liên quan đén sự hình thành các hợp
chất độc hại của lưu huỳnh, như : AlSO4
ở các vùng cửa sông, ven biển. Ơ nước ta, đất phèn chiếm một diện tích rất rộng ở đồng bằng Nam Bộ. Việc
cải tạo đất phèn đòi hỏi phải có các công trình thuỷ lợi, dẫn nước ngọt về rửa phèn và từng bước
khoanh vùng, sử dụng đất vào sản xuất.
ĐẤT THỤC : ( đất thuộc)
đất đã được cày bừa nhiều lần, xốp, nhuyễn, thuận lợi cho việc gieo
trồng thực vật.
ĐẦU MỐI GIAO THÔNG : nơi hội tụ của
nhiều tuyến đường giao thông vận tải cùng loại, hoặc khác loại. Ví dụ : đường sắt, đường ô tô, đường thuỷ,
đường không vv...Đầu mối giao thông vận tải thưòng là các thành phố công
nghiệp, các cảng biển lớn....
ĐẦU TƯ : hoạt động tài chính của nhà nước hoặc của các
tổ chức tư bản ( công ti xuyên quốc gia vv...)
nhằm sử dụng tiền vốn vào việc xây dựng các công trình, phát triển các
đề án kinh tế, khoa học-kĩ thuật vv...
ĐỀVÔN : ( D) kỉ thứ 3 của đại Cổ sinh. X. Đại.
đenta : đồng bằng
có hình tam giác do phù sa bồi đắp ở cửa sông. Trên đồng bằng thường có
nhiều nhánh sông chảy ra biển. X. thêm : Châu thổ.
ĐÈO : nơi trũng thấp
vượt qua một dãy núi, thuận lợi cho việc đi lại, giao thông vận tải. Ví dụ
: đèo Khế, đèo Hải Vân ...
ĐILUVI : 1 - sản phẩm
trầm tích của nước lũ
2 -
phù sa Đệ Tứ của những con sông hiện đại
ĐỊA BÀN : dụng cụ để xác
định phương hướng, đo tính các góc phương vị, rất cần thiết đối với các nhà du lịch, đi biển, đo vẽ bản đồ, nghiên
cứu địa chất vv...Địa bàn có nhiều loại, tuỳ theo công dụng, nhưng về nguyên
tắc, chúng đều có bộ phận chính là một kim nam châm quay trên một trục cố định.
Tất cả thường được đặt vào trong một hộp
tròn có chia độ và ghi tên các hướng
chính. Cũng có tên khác là : la bàn.
ĐỊA CẦU : X. Trái Đất.
ĐỊA CẦU THỂ : (géoid) hình dáng thực của Trái Đất, căn cứ vào độ
cao trung bình của mặt nước các đại
dương. Địa cầu thể không giống bất cứ
một hình hình học nào.
ĐỊA CHẤN HỌC : khoa học nghiên
cứu về các chấn động trong lớ vỏ Trái Đất.
ĐỊA CHẤN KÍ : dụng cụ rất nhạy dùng để ghi lại cường độ
cũng như thời gian xảy ra các chấn động
trong lớp vỏ Trái Đất ở một vùng hay ở một địa phương.
ĐỊA CHẤT HỌC : hệ thống các
khoa học nghiên cứu về thành phần, cấu trúc và sự phát triển của lớp vỏ Trái Đất trước kia và hiện nay. Trong Địa
chất học có nhiều ngành nhỏ nghiên cứu về từng mặt của lớp vỏ Trái Đất. Ví dụ : ngành nghiên cứu về các loại đá là: Nham
thạch học, về thành phần của các loại đá
là: Khoáng vật học, về sự phát triển của
lớp vỏ Trái Đất và các biến động của nó do nội lực gây ra là: Địa chất kiến tạo
học, về sự phát sinh và phát triển của
giới hữu cơ đặc trưng cho các thời kì
địa chất là: Cổ địa chất học và Địa
chất cổ sinh
vv...
ĐỊA DANH : danh từ riêng về địa lí, chỉ tên các lãnh
thổ, núi non, sông ngòi, biển, đại dương, các điểm quần cư như thành phố, thị trấn, làng mạc vv...Ví dụ
: Braxin, Himalaya, Mê Công, Hồng Hải, Hà Nội vv...
ĐỊA ĐỒ : X. Bản đồ
ĐỊA HÀO : bộ phận đất sụt
do nguyên nhân kiến tạo, hình thành một vùng trũng thấp, giới hạn giữa hai
đường đứt gãy song song. Ví dụ : Hồng hải và các hồ dài,hẹp ở Đông Phi đều là
những địa hào bị ngập nước.
ĐỊA HÌNH APALAT : loại địa hình
núi già được trẻ hoá,hoạt động xâm thực lại tiếp tục xảy ra trên một bề
mặt san bằng.
ĐỊA HÌNH ĐẢO NGƯỢC ĐỊA : địa hình biến
đổi hoàn toàn ngược với địa hình lúc ban đầu. Ví dụ : địa hình núi trước kia
nay trở thành thung lũng ( một nếp lồi bị xâm thực lâu ngày trở thành vùng lõm
vv...)
ĐỊA LÍ BỘ PHẬN : các ngành thuộc
khoa học Địa lí nghiên cứu các thành phần riêng biệt của lớp vỏ địa lí và
các cảnh quan trên Trái Đất. Thuộc về
các khoa học địa lí bộ phận có : Địa mạo học, Thuỷ văn học, Khí hậu học, Địa lí
thổ nhưỡng, Địa lí thực vật, Địa lí động vật v.v....
ĐỊA LÍ CHÍNH TRỊ HỌC : môn học nghiên
cứu các mối quan hệ giữa các quốc gia và đường lối chính trị của các
nước này dựa trên những điều kiện về tự nhiên. Môn học này trước
đây, đã được một số học giả tư sản
phát triển để phục vụ cho ý đồ xâm lược
của các nước đé quốc .
ĐỊA LÍ HỌC : hệ thống các khoa học có liên quan
với nhau, nghiên cứu về lớp vỏ địa lí, các lãnh thổ, các quốc gia, cả về mặt tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội.
Địa lí học gồm có các khoa học : địa lí tự
nhiên, địa lí xã hội ( nhân văn) và địa lí kinh tế. Các khoa học bộ phận khác như : địa mạo học,
khí hậu học, thuỷ văn học vv...trước kia
thuộc khoa học địa lí, nay hợp lí hơn, đã tách ra, thuộc vào các khoa học về Trái
Đất.
ĐỊA LÍ KIẾN THIẾT : khái niệm chỉ
một khuynh hướng mới trong Địa lí học, có mục đích giải quyết những vấn đề thực tiễn như : cải tạo và phát
triển các tổng thể tự nhiên và kinh tế một
cách hợp lí, sự điều hoà và phân bố
dân cư vv....Có nhiều thuật ngữ đồng nghĩa với Địa lí kiến thiết là :
cảnh quan học nhân sinh, địa lí học dự báo, cảnh quan học viễn cảnh, địa lí
tương lai học vv...
ĐỊA LUỸ : bộ phận nhô cao
giữa hai đường đứt gãy song song trong khu vực có địa hình đoạn tầng.
ĐỊA MÁNG : máng trũng cổ trong các đại dương, ở đó có sự tích tụ
của các lớp đá trầm tích rất dày và dẻo. Khi
các mảng lục địa chuyển dịch, va vào nhau, các lớp trầm tích trong địa
máng bị nén ép, uốn nếp và nhô lên thành các dãy núi.
ĐỊA MẠO HỌC : khoa học nghiên
cứu về hình thái các dạng địa hình trên bề mặt Trái Đất và quá trình phát sinh,
phát triển của chúng.
ĐỊA NHIỆT : nguồn nhiệt phát
sinh từ các lớp đất sâu ở bên trong Trái Đất.
ĐỊA PHƯƠNG CHÍ : tài liệu nặng về
mô tả, ghi lại một cách chi tiết những hiểu biết về một địa phương ( trong đó
có lịch sử, địa lí, sản vật, các danh nhân và phong tục ,tập quán của nhân dân
ở địa phương ....)
ĐỊA PHƯƠNG HỌC : môn học nghiên
cứu về thiên nhiên, về các hoạt động kinh tế - xã hội ở các lãnh thổ nhỏ có
tính cách địa phương như một làng, xã, huyện, tỉnh...Địa phương học được
khuyến khích phát triển trong các trường
phổ thông, với mục đích không những cung cấp cho học sinh những kiến thức chung về quê hương, về địa
phương trường đóng, mà còn giáo dục cho các em
lòng yêu và ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển
quê hương.
ĐỊA TỪ : tính chất từ của Trái Đất. Với tính chất này,
Trái Đất giống như một khối nam châm khổng
lồ, có hai từ cực Bắc và Nam. Hai
từ cực này có vị trí không trùng với hai cực địa lí, vì vậy các đường từ sức cũng không phù hợp với các kinh
tuyến địa lí. Các kim nam châm để trên
mặt đất, chỉ hướng Bắc - Nam cũng là hương Bắc - Nam từ. Hướng này không
trùng với hướng Bắc - Nam địa lí,
mà thường chếch khỏi hướng Bắc - Nam
địa lí một góc nhất định, tuỳ
theo từng nơi. Góc đó là độ từ thiên.
Trên các bản đồ địa hình chi tiết, đều có ghi
rõ độ từ thiên để cho người dùng
xác định được toạ độ địa lí một cách chính xác.
ĐỊA Y : thực vật bậc
thấp sống trên mặt đất, trên thân cây hay trên đá, chịu được những điều
kiện khắc nghiệt về nhiệt độ và độ ẩm.
ĐIỂM CẬN NHẬT : điểm có vị trí
gần Mặt Trời nhất trên quỹ đạo. Khi ở vị trí này, Trái Đất cách xa Mặt Trời khoảng 147 triệu km. Lúc đó là
vào khoảng những ngày đầu năm của dương lịch ( thường vào ngày mồng 3 tháng 1).
ĐIỂM ĐỐI CHÂN : điểm trên bề mặt
Trái Đất đối xứng qua tâm của nó với một điểm khác. Ví dụ : quần đảo Niu Dilen
nằm ở gần điểm đối chân với nước Pháp.
ĐIỂM VIỄN NHẬT : điểm có vị trí
xa Mặt Trời nhất trên quỹ đạo. Khi ở vị trí này, Trái Đất cách xa Mặt
Trời khoảng 152 triệu km. Lúc đó là vào khoảng những ngày đầu tháng 7
dương lịch.
ĐIỀN : (miền
Nam) vùng rộng hàng trăm, hàng nghìn hecta ruộng thuộc quyền sở hữu của địa chủ
trước đây, hoặc thực dân thời Pháp thuộc. ậ Bạc Liêu xưa, điền của địa chủ giàu
phải rộng từ 500 mẫu trở lên. Điền lớn được gọi là đồn điền.
ĐIỆN KHÍ HOÁ : quá trình xây
dựng và sử dụng nguồn điện một cách rộng rãi vào các lĩnh vực sản xuất và phục
vụ đời sống của một quốc gia, một địa phương.
ĐIỆN NGUYÊN TỬ : năng lượng điện
được sản xuất bằng cách tạo ra phản ứng dây chuyền phá vỡ hạt nhân của các nguyên tử nặng như Uran 235, Thôri
232, Plutôni 239 vv...trong các
lò phản ứng. Khi bị phá vỡ, chúng giải thoát một nguồn nhiệt rất lớn dùng để
chạy các tuôcbin phát điện. Trong những
năm gần đây, do việc cung cấp nguồn năng
lượng dầu mỏ có nhiều vấn đề phức tạp (
tranh chấp, khủng hoảng vv...) cho nên nhiều
quốc gia trên thế giới đã tập
trung vào hướng phát triển các nhà máy
điện nguyên tử. Hiện nay, trên thế giới
đã có hàng trăm nhà máy điện loại
này. Các nhà máy điện nguyên tử không những chỉ có ở các nước phát triển, mà còn có cả ở các nước đang phát triển như Braxin,Ân Độ, Triều
Tiên, Philippin vv...
ĐIỆN NHIỆT HẠCH : ( điên hạt
nhân) năng lượng điện được tạo ra do sự
kết hợp hạt nhân của hai dạng hyđrô nặng là đơtê ri (H2) và triti (H3) thành hạt nhân Heli (He4). Quá
trình kết hợp này sẽ giải thoát được
một nguồn năng lượng nhiệt rất lớn, dùng
để chạy các tuôcbin phát điện. Hiện nay, phản ứng nhiệt hạch mới chỉ được thực
hiện trong các phòng thí nghiệm. Người ta dự đoán : trong tương lai, các nhà
máy điện nhiệt hạch sẽ thay thế các nhà máy điện nguyên tử, bởi vì phản ứng kết
hợp nhiệt hạch tạo ra một nguồn nhiệt năng lớn
hơn phản ứng phá vỡ hạt nhân rất nhiều. Các nhà máy điện nhiệt hạch vừa có công suất lớn
hơn, vừa không có vật liệu phế thải làm ô nhiễm
môi trường. Nguyên liệu cũng là một nguồn không hạn chế, vì nó có thể
khai thác được trong nước biển, do đó giá thành của điện
nhiệt hạch sẽ rất rẻ.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN : khả năng của
toàn bộ các thành phần trong môi trường tự nhiên, có ảnh hưởng đến cuộc
sống và các hoạt động của con người trên một lãnh thổ ( ví dụ : vị trí
địa lí, địa hình, tài nguyên thiên
nhiên, khí hậu, các nguồn nước, các nguồn động, thực vật vv...). Điều kiện tự
nhiên là một nguồn lực quan trọng trong
việc phát triển quốc gia. Tuy nhiên, đối với từng quốc gia, nó có những mặt thuận lợi và khó khăn không hoàn
toàn giống nhau. Để làm rõ được vai trò
của nó, cần phải có sự đánh giá tỉ mỉ và toàn diện.
ĐINGÔ : loài chó hoang
dại trên lục địa Ôxtrâylia, nguồn gốc của nó là giống chó nhà.
ĐIÔRIT : loại đá măcma
phún xuất có thành phần gồm : plagiôcladơ và một hoặc nhiều khoáng vật màu ( khoảng 30%) như : biôtit, pirôxen,
vv....
ĐOẠN TẦNG : hiện tượng đứt
gãy của các lớp đất đá trong lớp vỏ Trái Đất do nội lực, làm cho các khối đá có bộ phận trồi lên, có bộ phận sụt
xuống, sinh ra các địa hào,địa luỹ. Còn gọi là phay hay đứt gãy.
ĐÔLÔMIT : khoáng vật có
nhiều màu, trắng, xám nhạt vv... Thành phần chủ yếu là canxi và manhê cacbônat [ C aMg (CO3)2] .
Đôlômit là nguyên liệu để sản xuất các vật liệu chịu lửa, làm chất trợ dung
trong công nghiệp thuỷ tinh, đồ gốm vv...
ĐÔ THỊ : điểm quần cư có
một số dân được quy định và có những chức năng riêng không thuộc lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp. Tuỳ theo sự quy định của các quốc gia, tiêu chuẩn số
dân tối thiểu để phân biệt đô thị với
các điểm quần cư nông thôn có khác nhau. Một đô thị ở Pháp phải có :
2.000 dân. ở Hoa Kì : 2.500 dân, ở Hà
Lan :20.000 dân, ở Aixơlen : 200 dân v.v...Số dân này ở một số nước cũng được
quy định rõ là phải có một tỉ lệ nhất định, không sống về nông nghiệp.
ĐÔ THỊ HOÁ : 1 - Quá trinh
phát triển các thành phố trong một quốc gia hoặc quá trình làm cho các điểm quần
cư có tính chất các đô thị. 2 - Quá trình thực hiện toàn bộ các biện
pháp kĩ thuật, hành chính, kinh tế và xã hội làm cho các thành phố được phát
triển một cách hài hoà, hợp lí, phục vụ
tốt cho cuộc sống của dân cư trong
nội thị.
ĐỒ THỊ hình thức biểu
hiện một cách trực quan các số liệu thống kê bằng phương pháp đồ hoạ.Đơn vị
thiên văn đơn vị đo khoảng cách giữa các
thiên thể trong vũ trụ. Đơn vị này được quy ước tính bằng khoảng cách trung
bình từ Trái Đất đến Mặt Trời,tức 149,6 triệu km
ĐỘ KHÔNG KHÍ ẨM: khả năng chứa một lượng hơi nước
nào đó của không khí. Độ ẩm không khí phụ
thuộc vào nhiệt độ và vào lượng hơi nước cụ thể ( tính bằng gam trong 1m3 không
khí). Nếu nhiệt độ không khí càng cao
thì lượng hơi nước chứa được trong 1m3 không khí càng lớn. Ví dụ : 1m3 không khí ở 10oC chứa được tối đa 9g hơi
nước, nhưng ở 20oC lại chứa được tới 17g hơi nước. Khi không khí ở một nhiệt độ nhất định, đã chứa
lượng hơi nước tối đa,thì nó bão hoà.
Nếu lượng hơi nước tiếp tục tăng thêm,
thì sẽ xảy ra hiện tượng ngưng tụ. Có
hai cách tính độ ẩm : tính độ ẩm tuyệt đối và tính độ ẩm tương đối. Tính
độ ẩm tuyệt đối phải dựa vào lượng hơi nước cụ thể ( tính
bằng gam chứa trong 1m3 không
khí ở nhiệt độ nhất định) trong một thời điểm nhất định. Ví dụ : độ ẩm tuyệt đối của không khí lúc 14 giờ hôm
nay là 12 g/m3 ở
nhiệt độ 20oC. Tính độ ẩm tương đối phải dựa vào tỉ lệ so
sánh ( tính bằng %) giữa lượng hơi nước thực tế chứa trong 1m3 không
khí so với lượng hơi nước trong 1m3
không khí bão hoà ở cùng nhiệt độ. Ví dụ : ở nhiệt độ 20oC,
trong 1m3 không khí hiện nay có 12g hơi nước. Nếu so với lượng hơi
nước bão hoà trong 1m3 không khí cũng ở nhiệt độ đó là 17g, thì độ
ẩm tương đối của không khí hiện nay là :
12/17 x 100 = 70,6%.
ĐỘ CAO TƯƠNG ĐỐI : khoảng cách đo
theo chiều thẳng đứng của một địa điểm so với một địa điểm khác trên mặt đất. Ví dụ : khoảng cách từ
chân núi Ba Vì đến đỉnh núi cao nhất là : 1270m. Như vậy 1270m
là độ cao tương đối của đỉnh núi
đó.
ĐỘ CAO TUYỆT ĐỐI : khoảng cách đo theo chiều thẳng đứng của một
địa điểm so với mực
nước trung bình của đại dương.
Ví duj : độ cao của đỉnh núi Phanxipăng so với mực nước
trung bình của đại dương là
3.142m. Đó là độ cao tuyệt đối. Trên bản đồ, tất cả các số đo độ
cao của các ngọn núi đều chỉ độ
cao tuyệt đối.
ĐỘ PHÌ CỦA ĐẤT : đặc tính quan
trọng nhất của thổ nhưỡng, bao gồm toàn bộ những tính chất hoá, lí
của đất, bảo đảm cho nó sản sinh ra năng suất thực vật. Độ phì có hai
loại : độ phì tự nhiên được xác định bằng trữ lượng các chất dinh dưỡng,
các chế độ nước, khí và nhiệt tự nhiên
của đất, còn độ phì nhân tạo hay độ phì
hiệu lực là độ phì do con người tạo ra bằng các biện pháp nông hoá như: làm đất ( để cải thiện các tính
chất nhiệt, ẩm, khí của đất), bón phân (
để tăng cường các chất dinh dưỡng cần thiết) vv...Độ phì của đất càng cao, thì
năng suất thực vật thu được càng lớn.
ĐỘC CANH : chế độ khai thác đất đai bằng cách chuyên
trồng một loại thực vật.
ĐỘC QUYỀN : tình trạng giành lấy cho riêng mình quyền sản
xuất hoặc kinh doanh một mặt
hàng.
Tình trạng độc quyền tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các
nhà tư bản,
các tập đoàn sản xuất trong phạm vi nội bộ quốc gia cũng như quốc tế.
ĐÔI THẠCH : vật liệu đá
vụn, đá tảng do băng hà xâm thực và vân chuyển ở đầu lưỡi băng và ở hai bên sườn, tạo thành các dải đôi thạch đầu
hoặc đôi thạch bờ. Khi hai băng hà gặp nhau, hai dải đôi thạch bờ sẽ hợp
lại,tạo thành một dải đôi thạch giữa.
ĐỐI LƯU : sự vận chuyển
các chất lỏng hoặc chất khí thành dòng lên xuống theo chiều thẳng đứng, do sự chênh lệch về nhiệt độ. Trong khí quyển,
tầng đối lưu là tầng không khí sát mặt đất có độ cao khoảng 18km ở vùng xích
đạo và từ 7 đến 9km ở vùng gần cực. Trong tầng này, các luồng không khí cũng
vận động thường xuyên theo chiều thẳng đứng, tạo ra hầu hết các hiện tượng khí
tượng thường thấy như : mây, mưa, sấm, chớp, gió, bão vv...
ĐỒI : loại địa hình
nổi cao trên mặt đất, có dáng mềm mại và thấp hơn núi. Ơ các vùng đất chịu tác đông bào mòn của băng hà ( ví dụ :
vùng Đông Âu), đồi thường có kích thước lớn, có sườn rất thoải, đỉnh tương đối bằng phẳng, bộ phận
chân đồi không biểu hiện rõ rệt. Độ cao tương đối của đồi không quá 200m. Ơ các
vùng nhiệt đới ẩm, nhiều mưa như nước ta, hiện tượng cắt xẻ địa hình diễn ra
tương đối mãnh liệt, nên đồi thường có dạng bát úp, có kích thước nhỏ. Độ dốc
của sườn khá lớn, đỉnh tương đối nhọn, bộ phận chân đồi phân biệt khá rõ với
sườn và mặt bằng xung quanh. Nói cung đồi ở vùng nhiệt đới gần giống với núi về
mặt hình thái. Chỗ khác nhau chủ yếu là kích thước nhỏ, độ cao kém hơn. Độ cao
của
phần lớn các
đồi ở nước ta chỉ từ 100m trở xuống. Với
độ cao trên 100m, nhân dân ta đã quen
gọi là núi.
ĐỒN ĐIỀN : hình thức tổ
chức sản xuất nông nghiệp, chủ yếu chuyên canh các cây công nghiệp ở miền
nhiệt đới như : cà phê, chè, dứa
vv...để xuất khẩu.
ĐÔNG CHÍ : vị trí trên quỹ
đạo khi Trái Đất hàng năm di chuyển đến, vào ngày 22 tháng 12 dương lịch. Lúc đó bán cầu Nam của Trái Đất
ngả nhiều nhất về phía Mặt Trời, vì vậy lúc này ở bán cầu Bắc là mùa lạnh, còn
ở bán cầu Nam là mùa nóng.
ĐỒNG (miền Nam) vùng đất rộng hàng trăm, hàng nghìn hecta
bằng phẳng, gồm toàn ruộng hoặc vừa ruộng vừa đất hoang chưa khai phá. Đông lớn
nhất ở Nam Bộ là Đồng Tháp Mười.
ĐỒNG BẰNG ; vùng đất rộng,
có bề mặt tương đối bằng phẳng hoặc gợn sóng. Độ cao trên mực nước biển nói chung thấp (dưới 200m). Phần lớn các đồng bằng được hình
thành chủ yếu do sự bồi đắp phù sa của
các sông ngòi hoặc của biển đều thấp dưới 100m. Ví dụ : đồng bằng sông Hồng ở
nước ta có độ cao 25m trên mực nước Biển Đông.Ngoài các đồng bằng do phù sa
sông bồi đắp, đồng bằng còn được hình thành do tác dụng bào mòn của băng hà
như: đồng bằng Bắc Âu, đồng bằng Đông Âu vv....
ĐỒNG CỎ ANPI : tên gọi chung
vành đai đồng cỏ trên núi cao, nằm ngay dưới vành đai băng tuyết vĩnh cửu ( theo kiểu đồng cỏ trên núi Anpơ.
Thực vật gồm có các loại cỏ ngắn lâu năm, rất thích hợp cho việc chăn nuôi. Dưới vành đai đồng cỏ Anpi là vành đai
đồng cỏ Cận Anpi ẩm, nhiều mưa với nhiều loại cỏ cao và cây bụi. Độ cao của đồng cỏ Anpi phụ thuộc vào vĩ độ
địa lí, vào khí hậu và vào hướng của
sườn núi. Ơ núi Anpơ và phía tây
núi Capca, độ cao đó là từ 2.000 đến 3.000m.
ĐỒNG RÊU : ( đài
nguyên) kiểu cảnh quan có tính đới ở các
vùng gần cực thuộc các lục địa Âu - A và Bắc Mĩ. Lớp phủ thực vật chủ yếu là rêu, địa y và cây
bụi. Phần lớn sinh khối thực vật tập trung ở trên mặt đất và sát mặt đất.
ĐỘNG : 1.- đơn vị hành
chính ở miền núi trong thời phong kiến.
Ngang cấp tổng hoặc xã ở đồng bằng. Ví dụ : động Yên Sơn...2.- khoảng trống
trong lòng núi ( thường là núi đá vôi) được hình thành do tác động của các dòng
nước chảy ngầm. X. Hang động. Ví dụ : động Phong Nha, động Tam
Thanh v.v...
ĐỘNG ĐẤT : hiện tượng
chấn động ở một bộ phận nào đó của lớp
vỏ Trái Đất. Động đất có thể do nhiều
nguyên nhân sinh ra, nhưng nguyên nhân chủ yếu gây ra những trận động
đất có cường độ lớn, phạm vi rộng là tác
động của các lực ở bên trong Trái Đất ( nội lực). Những khu vực có động đất lớn
trên thế giới là những khu vực có những
vận động kiến tạo lớn đang xảy ra. Sức
mạnh của các trận động đất, hiện nay
được phân ra 12 cấp theo thang Richte. Động đất là một hiện tượng xảy ra
thường xuyên trong lớp vỏ Trái Đất. Mỗi ngày, trên toàn thế
giới, trung bình có tới vài trăm trận động đất lớn, nhỏ. Tuy nhiên, chỉ
những trận động đất nào mạnh từ cấp 4 - 5 trở lên, lại xảy ra ở những vùng dân
cư đông đúc mới gây nên những thiệt hại
đáng kể về người và tài sản. Ví dụ : trận động đất xảy ra năm 1976 ở Đường Sơn
( Trung Quốc) đã làm cho trên 30 vạn người chết, là một tai hoạ rất khủng khiếp
đối với loài người. Để dự báo được thời gian xảy ra động đất, hiện nay người ta
đã thiết lập nhiều trạm nghiên cứu với
những dụng cụ đo đạc chính xác, trên khắp thế giới, để cố gắng hạn chế bớt
những thiệt hại do hiện tượng
này gây ra.
ĐỚI BĂNG KẾT VĨNH CỬU : đới tự nhiên ở
vùng xung quanh các cự Bắc và Nam. Đới này nhận
được một lượng nhiệt thấp hơn so
với các đới khác. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất vẫn dưới 0oC. Băng và tuyết tích tụ lại quanh năm trên mặt
đất và mặt biển. Trong thời kì nóng nhất, mặt đất chỉ lộ ra ở đôi chỗ với lớp phủ thực vật nghèo
nàn (rêu, địa y...). Tuy nhiên, giới
động vật biển lại khá phong phú ( cá
voi, hải cẩu vv...)
ĐỚI CẬN CỰC : đới tự nhiên, nằm ở cả hai bán cầu chuyển tiếp giữa ôn
đới và đới cực. Đới cận cực Bắc nằm trong khoảng các vĩ độ từ 60 đến 73o
B, còn đới cận cực Nam từ 50 đến 67o N. Nhiệt độ trong năm rất rhấp,
mùa hạ từ 0 đến 120 C , mùa đông từ
- 5o C đến - 40o
C . Lượng mưa từ 300 đến 500mm/năm . Lớp phủ thực vật chủ yếu là thực vật đài
nguyên.
ĐỚI CẬN NHIỆT : đới tự nhiên
chuyển tiếp giữa nhiệt đới và ôn đới. Trong đới cận nhiệt, sự biểu hiện các mùa tương đối rõ, đặc biệt là hai mùa hạ
và đông. Khí hậu trong đới tương đối
nóng hơn khí hậu ôn đới. Loại khí hậu này lại phân ra : khí hậu cận nhiệt đới
khô và khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Khí hậu
cận nhiệt đới khô có ở bờ tây các lục
địa. Mùa hạ ở đây nóng khô, trái lại, mùa đông ấm nhiều mưa. Loại khí hậu này thể hiện rõ nhất
ở vùng ven bờ Địa Trung Hải, vì vậy cũng gọi là khí hậu Địa Trung Hải . Khí hậu cận mhiệt đới ẩm
có ở khu vực bờ đông các lục địa.
Loại khí hậu này có chế độ nhiệt, ẩm
cao, nhiều mưa, chủ yếu về mùa hạ.
ĐỚI CẬN XÍCH ĐẠO : đới tự nhiên
chuyển tiếp giữa đới xích đạo và nhiệt đới
( ở cả hai bán cầu). Đới này, về mùa hạ chịu ảnh hưởng của khối khí ẩm
ướt xích đạo, về mùa đông chịu ảnh hưởng của khối khí nóng khô do tín phong
thổi tới. Lượng mưa trung bình từ 250 đến
2.000mm/năm. Nhiệt độ không khí luôn luôn cao ( từ 20 đến 30o C ). Càng xa xích đạo,
mùa khô càng kéo dài ( từ 2 - 3 tháng
đến 8 - 10 tháng) . Lớp phủ thực vật thay đổi từ rừng mưa ẩm đến xavan cây bụi.
Đất chủ yếu là Pheralit.
ĐỚI LẶNG GIÓ : đới không có
gió thổi trên mặt đất hoặc mặt nước, mà chỉ có sự vận chuyển không khí
lên cao hoặc dồn xuống thấp theo chiều thẳng đứng. Trước kia, khi việc
đi lại trên biển và đai dương còn dựa chủ yếu vào thuyền buồm, thì
đới lặng gió là những vùng đáng sợ đối với các nhà hàng hải và thuỷ thủ. Trên bề mặt Trái Đất có 3 đới lặng gió là : đới lặng gió
xích đạo ( có không khí bốc lên cao quanh năm) và hai đới lặng gió ở chí tuyến
Bắc và chí tuyến Nam ( có không khí dồn
nén từ cao xuống thấp).
ĐỚI NHIỆT : đới được phân
ra một cách đơn giản dựa theo những điều kiện xác định về nhiệt độ không khí, dọc theo các vĩ tuyến. Trên
Trái Đất có 5 đới nhiệt chính : đới nóng (nhiệt
đới) nằm ở giữa các đường đẳng
nhiệt trung bình năm 20o C ( một số khu vực có nhiệt độ 30o
C ). Hai đới ôn hoà hay ôn đới (ở cả hai
bán cầu) nằm ở giữa các đường đẳng nhiệt trung bình năm 20o C và đường đẳng nhiệt
trung bình tháng nóng nhất 10o C ( giới hạn sinh sống của thực vật).
Cuối cùng là hai đới băng giá vĩnh cửu, có các đường đẳng nhiệt các tháng trong năm dưới 10o C .
ĐỚI THEO CHIỀU CAO : đới tự nhiên
hình thành do sự thay đổi từ từ của các cảnh quan theo độ cao.. Sự thay
đổi này diễn ra trên các sườn núi ( từ
chân lên tới đỉnh) cũng tương tự như sự thay đổi cảnh quan theo vĩ độ (từ cực
về xích đạo). Độ cao của ranh giới các đới, phụ thuộc vào vị trí của núi ( theo
vĩ độ) và vào hướng của sườn núi. Ví dụ
: trên sườn một ngọn núi ở nhiệt đới,
người ta quan sát thấy ở chân núi có rừng nhiệt
đới ẩm, lên cao hơn là rừng thưa, cao hơn nữa là đồng cỏ, trên đồng cỏ
là rừng lá kim vv...
ĐỚI TỰ NHIÊN : ( đới cảnh
quan) bộ phận rộng lớn của vòng đai tự
nhiên có những điều kiện nhất định về tự
nhiên ( khí hậu, thổ nhưỡng, sinh vật), được phân biệt chủ yếu do đặc
điểm của lớp phủ thực vật. Việc
phân chia các đới tự nhiên trên bề mặt
Trái Đất, theo nhiều tác giả hiện nay
còn chưa thống nhất. Tuy nhiên, có
thể nêu ra một số đới chính sau đây :
a)
trong vòng đai lạnh có các đới : hoang mạc lạnh, đài nguyên, đài nguyên rừng,
b)
trong vòng đai ôn hoà có các đới : rừng taiga, rừng hỗn hợp, rừng lá rộng, thảo
nguyên và hoang mạc
c)
trong vòng đai nóng có các đới : hoang mạc nhiệt đới, xavan, rừng nhiệt đới.
ĐUMPINH : một trong những
biện pháp cạnh tranh trong nền thương mại quốc tế, nhằm bán một loại hàng hoá trên thị trường nước ngoài, hoặc
thấp hơn giá bán trong nước, hoặc dưới giá thành làm cho các đối thủ bị phá sản.
ĐƯỜNG BÌNH ĐỘ : ( đường đẳng
cao) đường vẽ trên bản đồ địa hình, nối
những điểm có cùng
một độ cao so
với mực nước biển ( các đường bình độ không chỉ biểu hiện những dạng địa
hình lồi, - cao hơn mực
nước biển -, mà cả những dạng địa hình
lõm - thấp hơn mực nước
biển -). Tuỳ theo tỉ lệ bản đồ
và mức độ chi tiết trong quá trình đo vẽ, các đường bình độ có
thể biểu hiện những độ cao cách nhau từ vài mét đến vài trăm mét. Dựa vào các đường
bình độ vẽ trên bán đồ, người
ta có thể nhận ra được các loại địa hình
như : đồi, gò, thung
lũng vv... và cả độ cao cũng
như độ dốc của chúng.
ĐƯỜNG BỜ BIỂN : đường ranh giới tiếp xúc giữa đất liền và
biển.
ĐƯỜNG CHIA NƯỚC : ( đường phân thuỷ) đường ranh giới phân chia lưu vực của hai con
sông.
Đường chia
nước có thể là đường đỉnh của một dãy núi, một vùng đồi, hoặc một vùng
đất
cao vv...Ơ hai bên đường
chia nước, nước mưa,nước nguồn vv...chảy
vào hai lưu vực sông
khác nhau.
ĐƯỜNG CHUYỂN NGÀY QUỐC TẾ
: đường quy ước gần phù hợp với kinh
tuyến 180o , đi qua
giữa Thái Bình
Dương. Khi tàu bè đi qua đường này, từ hướng Tây sang Đông phải tính
thời gian lùi lại một ngày, còn nếu từ hướng Đông sang Tây thì phải tính tăng lên
một
ngày. Những địa điểm nằm trên đường chuyển ngày quốc tế, tuy có
giờ giống nhau,
nhưng lại có ngày khác nhau,
tuỳ theo hướng di chuyển từ Tây sang Đông hay
ngược lại.
ĐƯỜNG CƠ SỞ : đường do một quốc gia ven biển quy định ( căn
cứ vào luật biển quốc tế ) để
làm mốc tính chiều rộng lãnh hải của quốc gia đó.
Đường cơ sở thường là một đường
thẳng gẫy khúc nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển hoặc các điểm trên một số đảo ở
ven bờ.
ĐƯỜNG ĐẲNG ÁP : đường nối những điểm có số trị khí áp bằng
nhau trên bản đồ. Trong địa lí,
người ta thường
sử dụng bản đồ vẽ các đường đẳng áp tháng 1 và tháng 7 để nghiên cứu
tình trạng khí áp và các loại gió thổi theo mùa.
ĐƯỜNG ĐẲNG NHIỆT : đường nối những điểm có số trị nhiệt độ trung
bình nhiều năm bằng
nhau trên bản đồ. Trong địa lí, nhờ có các đường đẳng
nhiệt trung bình năm, trung bình
tháng 7, trung bình tháng 1, mà người ta có thể xác định được chế
độ nhiệt cũng như đặc
điểm khí hậu của các lãnh thổ.
ĐƯỜNG ĐẲNG LƯỢNG MƯA : ( đường đẳng vũ) đường nối những điểm có cùng lượng mưa
trung bình trên bản
đồ ( tính bằng mm).
ĐƯỜNG ĐỒNG TRIỀU
: ( đường đẳng triều) đưòng nối những điểm có thuỷ triều lên, xuống
cùng một giờ trong
ngày, trên bản đồ.
ĐƯỜNG GIỚI HẠN TUYẾT : đường giới hạn phân chia vùng có tuyết phủ
quanh năm và vùng
có tuyết tan về
mùa hạ, trên các vùng núi cao. Độ cao của đường giới hạn này phụ thuộc
trước hết vào vĩ độ địa lí của vùng núi, sau đó vào lượng tuyết rơi và vào hướng
của sườn
núi. Ơ xích đạo,độ cao của đường giới hạn này thường ở khoảng 5.000m
( tính từ chân
núi). Càng đi về phía cực, độ
cao đó càng giảm dần. Ơ quanh hai cực, xuống đến 0m ( ngay
ở mực nước biển).
ĐƯỜNG HỘI TỤ NHIỆT ĐỚI : đưòng tiếp xúc, nơi gặp gỡ của hai khối khí
nhiệt đới ( ở vùng
giữa hai chí tuyến), một từ bán cầu Bắc xuống và một từ
bán cầu Nam lên. Hướng di chuyển
của các khối khí là hướng của tín phong bán cầu Bắc và tín
phong bán cầu Nam. Đường
hội tụ nhiệt đới cũng là nơi thường xảy ra các trung tâm bão nhiệt
đới. Đường hội tụ nhiệt
đới
không có vị trí cố định mà thường xuyên di chuyển tuỳ theo thời gian trong mùa.
Chính vì vậy mà bão ở miền Bắc nước ta thường xảy ra
vào các tháng đầu mùa hạ. Càng
về cuối mùa hạ, bão càng di
chuyển xa về phía nam. Có tài liệu dùng
: dải hội tụ nhiệt đới.
ĐƯỜNG PHÂN THUỶ : X.
Đường chia nước.