Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (K)
Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (K)
K
KÉM PHÁT TRIỂN
: thuật ngữ được dùng phổ biến vào những năm 50
của thế kỉ này để chỉ tình
trạng của một số quốc gia có nền kinh tế
còn ở mức độ tiền công nghiệp, thể hiện ở trình độ thấp
kém của nông nghiệp, sự vắng mặt của hầu
hết các ngành công nghiệp quan trọng và sức tiêu thụ
của nhân dân thấp.
KÊNH ĐÀO : công trình nhân tạo có mục đích tạo điều kiện
thuận lợi cho giao thông vận tải, như :
nối liền hai đại dương (kênh đào Panama,
kênh đào Xuyê...), hai lưu vực sông ( kênh đào Vônga
- Đôn), hoặc tạo điều kiện lấy nước tưới
tiêu cho nông nghiệp như : kênh đào Bắc-Hưng-Hải và
nhiều kênh rạch ở Nam Bộ.
KÊNH XÁNG : thuật ngữ
được dùng nhiều ở miền Nam nước ta để chỉ kênh đào. Ví dụ : kênh
xáng Xà No, kênh xáng Xẻo Rô...
KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH :
thuật ngữ có thể hiểu theo hai cấp độ: theo nghĩa rộng là một chương
trình
quốc gia với tổng hợp các biện pháp nhằm hạn chế sinh đẻ với mục đích
chính là bảo đảm
gia đình có quy mô nhỏ, phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội của quốc gia. Theo nghĩa hẹp là kế
hoạch của mỗi cá nhân, mỗi cặp vợ chồng
nhằm đảm bảo số con theo ý muốn, cải thiện sức khoẻ,
hạnh phúc và chất lượng cuộc sống của mỗi
thành viên trong gia đình.
KẾT CẤU DÂN SỐ
: tình trạng kết hợp các bộ phận hợp thành dân
số của một nước theo từng mặt,
từng tiêu chuẩn nhất định. Ví dụ : kết
cấu theo giới (theo nam, nữ), theo độ tuổi, theo nghề
nghiệp, theo trình độ văn hoá vv...
Kết cấu dân số được phân ra : kết
cấu tự nhiên hay kết cấu sinh học gồm : kết cấu theo giới,
theo độ tuổi, theo thành phần dân tộc,
quốc tịch... và kết cấu xã hội gồm : kết
cấu theo thành
phần giai cấp, theo khu vực lao động,
theo nghề nghiệp, theo trình độ văn hoá v.v...
KẾT CẤU HẠ TẦNG :
toàn bộ các cơ sở vật chất, công trình phục vụ cho các lĩnh vực sản xuất của
nền kinh tế quốc dân, như : đường sá,
kênh nước, sân bay, cơ sở năng lượng, kho tàng v.v...
KẾT VON SẮT :
sản phẩm có dạng hạt, được tạo ra trong quá trình hình thành thổ nhưỡng, do sự
kết
tụ của chất sắt hoà tan trong dung dịch
thổ nhưỡng. Trong điều kiện nhiệt độ cao, nước trong
dung dịch thổ nhưỡng bốc hơi, chất sắt
đọng lại, tạo thành các lớp đồng tâm, bao quanh các nhân
là các hạt đá vụn.
KHAM XIN :
loại gió nóng, khô thổi ở Ai Cập, từ tháng 4 đến tháng 6, trong khoảng thời
gian 50
ngày ( Theo tiếng Aráp, Khamxin có nghĩa
là 50).
KHE RÃNH
: hình thức xâm thực của các dòng nước chảy
xiết trên các sườn đồi, sườn núi dốc trơ
trụi, không có lớp phủ thực vật.
KHÍ ÁP :
sức nén của không khí lên mọi vật trên bề mặt Trái Đất. Do không khí có trọng
lượng :
1,3g/lit, nên sức nén của lớp khí quyển
trên mặt đất vào khoảng 1033g/cm2 . Trên mặt nước biển,
trong điều kiện nhiệt độ không khí là 0oC,
sức nén của không khí bằng trọng lượng
của một cột
thuỷ ngân cao 760 mm. Áp lực đó được coi
là đơn vị khí áp : atmôtphe. Khí áp còn được đo bằng
một đơn vị khác : miliba (mb). 1 atmôtphe
bằng 1013mb. Trên bề mặt Trái Đất, trung bình cứ lên
cao 10m, áp lực không khí lại giảm đi 1mm thuỷ ngân hay 1,3 miliba. Từ 1- 1- 1986, theo quy
ước quốc tế , đơn vị đo khí áp miliba đã
được thay bằng đơn vị hectô Paxcan . 1 miliba = 1 hPa.
KHÍ ÁP KẾ
: dụng cụ dùng để đo áp lực không khí. Có nhiều
loại khí áp kế. Cổ điển nhất là khí áp
kế thuỷ ngân gồm một ống thuỷ tinh dài 80
cm, một đầu bịt kín, trong đựng đầy thuỷ ngân và úp
đầu hở vào một chén thuỷ ngân. Cột thuỷ
ngân trong ống hạ xuống dưới 80cm để lại một khoảng
trống trên đầu ống bịt kín. Cột thuỷ ngân
lên cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình khí
áp. Nếu
cột thuỷ ngân cao 760mm thì khí áp là trung bình. Nếu dưới 760 mm là khí áp
hạ, trên 760 mm
là khí áp
cao. Để tiện việc theo dõi, trên ống thuỷ tinh hoặc trên giá đỡ khí áp
kế đã có chia vạch
ghi sẵn số chỉ độ cao của cột thuỷ ngân.
Khí áp kế thuỷ ngân tuy đơn giản, chính xác, nhưng
cồng kềnh không tiện sử dụng, cho nên nó
được thay thế bằng loại khí áp kế hộp,
có vỏ kim
loại, gọn nhẹ, dễ di chuyển và tiện lợi
cho người sử dụng.
KHÍ CACBÔNIC
: còn gọi : cacbon điôxit là một chất khí tồn
tại trong khí quyển với một tỉ lệ rất
nhỏ ( trung bình 0,03%). Công thức hoá
học là CO2 .
KHÍ HẬU
: chế độ thời tiết của một địa phương
trong nhiều năm . Khí hậu của một địa phương phụ
thuộc vào vị trí ( theo vĩ độ, theo mức
độ gần hoặc xa biển) vào các dòng hải lưu ( nếu ở gần
biển), vào địa hình (độ cao so với mực
nước biển) và vào sự thay đổi thường xuyên của các khối
khí có tính chất khác nhau. Phụ thuộc vào
vĩ độ địa lí, khí hậu trên bề mặt Trái Đất thay đổi từ
xích đạo đến cực. Theo Alixôp thì ở cả 2
bán cầu có tất cả 7 đới khí hậu chính và
6 đới khí hậu
chuyển tiếp. Các đới khí hậu chính là : 1 đới khí hậu xích đạo, 2 đới khí hậu nhiệt đới, 2 đới
khí
hậu ôn đới và 2 đới khí hậu cực đới. Các đới khí hậu chuyển tiếp là :
2 đới khí hậu cận xích đạo,
2 đới khí hậu cận nhiệt và 2 đới khí hậu cận cực. Gọi là khí hậu chuyển tiếp vì
các đới này có lúc
bị khối khí phía nam tràn lên bao phủ, có
lúc lại bị khối khí phía bắc tràn tới thay thế...
Phụ thuộc vào mức độ gần hoặc xa biển,
trong các đới khí hậu lại chia ra các kiểu : khí hậu đại
dương và khí hậu lục địa. Phụ thuộc vào
độ cao của địa hình, khí hậu lại phân hoá ra các vành đai
khí hậu theo độ cao. Phụ thuộc vào ảnh
hưởng của các dòng hải lưu và sự di chuyển của các khối
khí, khí hậu lại phân ra các kiểu : khí
hậu ở bờ đông và bờ tây các lục địa, khí hậu gió mùa v.v...
Thuật
ngữ khí hậu của phương Tây (climat) xuất xứ từ tiếng Hi Lạp "
Klimatos" có nghĩa là
độ nghiêng (độ nghiêng của các tia sáng
Mặt Trời so với mặt đất). Điều đó chứng tỏ là từ xưa, ở
phương Tây, người ta đã hiểu khái niệm khí hậu căn cứ vào nhân tố vĩ độ.
Thuật ngữ khí hậu của ta và Trung Quốc
lại xuất xứ từ hai khái niệm " tiết khí" và "vật hậu". Đó
là những khái niệm chỉ tình trạng về thời
tiết và về động thái của động, thực vật phụ thuộc vào
thời tiết. Như vậy, ở phương Đông, người
ta hiểu khái niệm khí hậu dựa vào những kết quả của
nó biểu hiện trong thiên nhiên, trong sự
thay đổi qua các mùa của thời tiết và
động thái của các
sinh vật.
KHÍ HẬU CẬN NHIỆT ĐỚI :
loại khí hậu chuyển tiếp giữa khí hậu nhiệt đới và khí hậu ôn đới. Đặc
điểm của loại khí hậu này là : có sự phân
biệt khá rõ các mùa trong năm. Mùa đông tương đối
ấm, mùa hạ nóng, nhiệt độ trung bình
tháng lạnh nhất thường trên 00C. Đới khí hậu cận nhiệt
nằm ở khoảng giữa các vĩ độ 30-400B
và 30-350N. Khí hậu cận nhiệt đới lại chia ra 3 kiểu :
1/- Khí hậu cận nhiệt đới đại dương ở
bờ phía tây các lục địa, có mùa hạ khô và nóng, mùa
đông ẩm và có mưa. Biên độ nhiệt độ trong
năm khoảng 80C.
2/-
Khí hậu cận nhiệt đới lục địa ở các vùng giữa lục địa, xa biển, có mùa
hạ nóng và khô,
mùa đông lạnh, lượng mưa nhỏ, biên độ
nhiệt độ trong năm khoảng 260C.
3/- Khí hậu cận nhiệt đới gió
mùa, có mùa hạ nóng và ẩm, mùa đông mát và khô, biên độ
nhiệt độ trong năm từ 15 đến 200C.
KHÍ HẬU ĐẠI DƯƠNG :
kiểu khí hậu của những vùng nằm ven bờ các đại dương, chịu ảnh hưởng rõ
rệt của gió thổi từ đại dương vào, đem
theo một lượng lớn hơi nước. Đặc điểm của kiểu khí hậu
này là không có biên độ nhiệt độ lớn giữa
mùa hạ và mùa đông, giữa ngày và đêm, nhưng lại có
độ ẩm không khí lớn, độ mây phủ, sương mù
và lượng mưa đáng kể. Ví dụ : khí hậu khu vực Tây
Âu v.v...Còn gọi là khí hậu hải dương.
KHÍ HẬU ĐỊA TRUNG HẢI
:
kiểu khí hậu đặc trưng của khu vực phía đông vùng ven bờ Địa Trung
Hải. Mùa hạ ở đây rất nóng và khô vì có
các khu áp cao cận nhiệt đới bao phủ, mùa đông dịu và
nhiều mưa. Nhiều vùng khác trên thế giới
có kiểu khí hậu này, cũng gọi là khí hậu Địa Trung
Hải, mặc dầu không nằm ở ven bờ Địa Trung
Hải.
KHÍ HẬU HỌC
: khoa học thuộc hệ thống khoa học địa lí, có nhiệm vụ nghiên cứu quá trình
phát
sinh, phát triển và phân loại các loại,
các kiểu khí hậu ở các đới, các vùng khác nhau trên Trái
Đất. Việc nghiên cứu khí hậu dựa chủ yếu
vào các tài liệu thống kê khí tượng trong nhiều năm.
Trong khí hậu học có nhiều ngành nhỏ
như : Cổ khí hậu học ( nghiên cứu khí
hậu của các thời
kì xa xưa), khí hậu nông nghiệp ( nghiên
cứu khí hậu phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp), khí
hậu y học ( nghiên cứu khí hậu phục vụ
cho mục đích y tế) v.v...
KHÍ HẬU HOANG MẠC NÓNG
: kiểu khí hậu đặc trưng cho các vùng hoang mạc
nhiệt đới và cận
nhiệt đới, quanh năm có nhiệt độ cao,
nhưng không ổn định, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm lớn
(đặc biệt trong mùa hạ). Lượng mưa nhỏ,
trung bình năm không quá 125mm. Trong nhiều tháng
liền có thể không có mưa. Kiểu khí hậu
này chiếm : 37% diện tích châu Úc, 32% diện tích châu
Phi, 9% diện tích Nam Mĩ, 7% diện tích
châu Á và 5% diện tích Bắc Mĩ.
KHÍ HẬU LỤC ĐỊA :
kiểu khí hậu của những vùng nằm sâu trong lục địa, xa biển, ít chịu ảnh
hưởng điều hoà của đại dương, hoặc tuy
nằm gần đại dương nhưng lại có gió thổi thường xuyên
từ lục địa ra biển. Kiểu khí hậu này nói
chung có biên độ nhiệt giữa ngày đêm và giữa các mùa
trong năm lớn, lượng mưa nhỏ. Ví dụ : khí
hậu vùng Trung Á, vùng trung tâm Bắc Mĩ v.v..
KHÍ HẬU NHIỆT ĐỚI : loại khí hậu nóng quanh năm, phân bố ở các
vùng vĩ độ thấp, có tín phong
chiếm ưu thế ở hai bên đường xích đạo.
Đặc điểm chủ yếu là :
-
có nhiệt độ cao và ổn định. Biên
độ nhiệt trong năm dao động từ 5 đến 100C.
-
có lượng mưa trong năm phân bố không đều. Càng xa xích đạo, mùa mưa càng
tập trung
gần vào thời kì hạ chí ( ở bán cầu Bắc), mùa khô càng kéo dài.
Trong loại khí hậu nhiệt đới, kiểu
khí hậu nhiệt đới gió mùa có sự phân biệt ra hai mùa khô và
mưa rất rõ rệt.
KHÍ
HẬU NÔNG NGHIỆP : một ngành thuộc khoa học khí hậu, nghiên cứu ảnh
hưởng của các nhân
tố khí hậu đối với sản xuất
nông nghiệp.
KHÍ HẬU ÔN ĐỚI
:
loại khí hậu ở các vùng vĩ độ trung bình có gió Tây chiếm ưu thế (từ vĩ độ 400
đến 600 ở cả hai
bán cầu). Đặc điểm chủ yếu là :
-
có mùa hạ ấm (từ 10 đến 250C) và mùa đông lạnh, nhiều tuyết
(ở một số vùng Bắc Á nhiệt
độ xuống đến - 400C).
-
có lượng mưa trung bình từ 500
đến 800mm. Ở các vùng ven lục địa, có thể từ 1.000 đến
2.000mm).
Khí hậu ôn đới có thể phân ra :
1/- kiểu khí hậu ôn đới đại dương, có
mưa quanh năm, mùa đông tương đối ấm,
mùa hạ mát.
Nhiệt độ trung bình năm thấp ( Ví dụ : ở
Luân Đôn là 140C).
2/- kiểu khí hậu ôn đới lục địa có biên độ nhiệt trong năm
lớn (có thể tới 400C), mùa đông lạnh,
mùa hạ nóng, lượng mưa nhỏ ( chủ yếu về
mùa hạ). Ví dụ : khí hậu của phần lớn lãnh thổ Liên
bang Nga hoặc vùng Trung tâm Bắc Mĩ.
3/-
kiểu khí hậu ôn đới gió mùa, có mùa đông lạnh, ít tuyết, mùa hạ ấm, ẩm,
nhiều mưa. Biên
độ nhiệt trong năm vào khoảng 300C. Ví dụ : vùng Viễn Đông Liên
bang Nga, vùng Đông Bắc
Trung Quốc v.v...
KHÍ HẬU XÍCH ĐỚI
:
loại khí hậu nóng ẩm, phân bố trên dải đất hẹp ở hai bên đường xích đạo
(bao gồm lưu vực các sông Côngô, Amadôn,
trong vùng quần đảo Mã Lai...). Các vùng này nằm
trong vùng lặng gió xích đạo, có nhiệt độ
trung bình năm khoảng 260C. Biên độ nhiệt độ giữa
các mùa không đáng kể. Lượng mưa rải đều
trong năm, trung bình từ 1.500 đến
2.500mm. Phần
lớn mưa vào các buổi chiều.
KHÍ QUYỂN : lớp không khí bao quanh Trái Đất có thành phần
là hỗn hợp một số loại khí có tỉ lệ
cao như : nitơ (78%), ôxy (21%) và các
loại khí có tỉ lệ thấp hơn như : hơi nước, khí cacbônic,
hyđrô, hêli vv...Trong lớp khí quyển có
một lượng lớn các hạt bụi có nguồn gốc vô cơ và hữu cơ.
Về chiều dày của lớp khí quyển, trước đây
nhiều tài liệu cho là 1000 hoặc 3.000km, nhưng gần
đây đa số lại cho rằng : dấu vết của
không khí còn thấy ở độ cao trên 60.000 km ( mặc dầu ở đây
không khí đã rất loãng, không khác gì
khoảng không giữa các hành tinh). Đáy của khí quyển là
bề mặt tiếp xúc với các lục địa và đại
dương.
Lớp khí quyển có thể chia ra nhiều
tầng : dưới thấp là tầng đối lưu, trên tầng đối lưu là tầng
bình lưu, cao hơn nữa là các tầng : trung
gian, iôn v.v...Khí quyển có tác dụng bảo vệ cho sự sống
trên Trái Đất. Nó ngăn các tia bức xạ
sóng ngắn có hại đối với các sinh vật như : các tia tử ngoại,
tia rơn ghen v.v...và cả sự xâm nhập của các thiên thạch
có sức công phá đối với bề mặt Trái Đất.
KHÍ TƯỢNG HỌC : khoa học nghiên cứu về trạng thái vật lí của
lớp khí quyển và về các hiện
tượng tự nhiên xảy ra trong đó như : gió,
bão, mây mưa, sấm chớp v.v...,nhằm mục đích dự
báo
sự phát triển của thời tiết. Trong khí
tượng học cũng có nhiều ngành nhỏ như : khí tượng học
nông nghiệp, khí tượng học hàng không,
hàng hải v.v...
KHÍ XOÁY
: khu vực khí áp thấp hoặc cao, hình thành ở
tầng khí quyển dưới thấp, có gió thổi xoáy
vào trung tâm ( khu khí áp thấp) hoặc từ trung tâm xoáy ra ngoài (
khu khí áp cao). Khu khí áp
càng thấp hoặc càng cao thì sức gió càng
mạnh. Nguyên nhân của hiện tượng gió thổi xoáy là
hiện tượng lệch hướng của gió do lực
Côriôlit.
Ở hai bán cầu, hướng gió xoáy trong các khu khí áp thấp
hoặc cao ngược chiều nhau. Ở bán
cầu Bắc, gió thổi xoáy theo chiều nghịch
với chiều quay của kim đồng hồ trong khu áp thấp và
thuận với chiều kim đồng hồ trong khu áp
cao. Ở bán cầu Nam, gió thổi xoáy theo hướng thuận
với chiều quay của kim đồng hồ trong khu
áp thấp và nghịch với chiều kim đồng hồ trong khu áp
cao.
KHIÊN : nền cổ được cấu tạo bằng các loại đá rắn chắc
(chủ yếu là đá măcma) có tuổi trước đại Cổ
sinh. Có thể đó là những bộ phận còn sót lại của lớp vỏ lục địa Nguyên sinh.
Trên bề mặt Trái
Đất, ở vùng vĩ độ cao có các khiên :
Canađa, Xcanđinavi và Xibia; ở vùng vĩ độ thấp có các
khiên : Braxin, Guyan, Mađagaxca, Phi, Ấn
Độ và Ôxtrâylia.
KHOÁNG SẢN
:
những khoáng vật có ích trong lớp vỏ
Trái Đất được khai thác hoặc chưa được khai
thác, có thể sử dụng được vào mục đích
kinh tế (chủ yếu trong công nghiệp). Các
khoáng sản
thường chia ra hai loại : khoáng sản kim
loại (như : quặng sắt, quặng đồng...) và khoáng sản phi
kim
loại ( như than đá, apatit...).
KHOÁNG VẬT
: vật chất tự nhiên có thành phần đồng nhất.
Khoáng vật thường gặp dưới dạng tinh
thể trong thành phần của các loại đá. Ví
dụ : thạch anh là khoáng vật thường gặp trong đá cát, đá
granit dưới dạng tinh thể. Trong một số
tài liệu phổ biến khoa học, thuật ngữ khoáng vật cũng
còn được dùng (theo nghĩa mở rộng là chất
khoáng) để chỉ các hợp chất lỏng và khí trong lớp vỏ
Trái đất như : dầu mỏ, khí đốt, nước
khoáng v.v...
KHOÉT MÒN
: (corrasion)
hình thức xâm thực bằng cách khoét lõm các loại đá ở từng chỗ, do tác
dụng ma sát của các vật liệu rắn (cát,
cuội, đá tảng...) được băng hà, các dòng nước chảy hoặc
gió mang tới. X.
thêm : Mài mòn.
KHỐI KHÍ : bộ phận không khí trong khí quyển, bao phủ
những vùng đất đai rộng lớn, chịu ảnh
hưởng của bề mặt tiếp xúc, nên có
những tính chất khác với các bộ phận
không khí khác về áp
suất, nhiệt độ, độ ẩm và hướng di
chuyển...Các khối khí này được phân ra hai loại
chính : các
khối khí nóng ( bao phủ những vùng đất
đai ở các vĩ độ thấp) và các khối khí lạnh (bao phủ
những vùng đất đai ở các vĩ độ cao). Các
khối khí nóng và lạnh lại phân ra : các khối khí đại
dương (bao phủ các đại dương) và các khối
khí lục địa ( bao phủ các vùng đất liền).
Theo vị trí phân bố trên bề mặt
Trái đất, những khối khí lại phân ra :
1)- khối khí xích đạo (kí hiệu là E)
hình thành ở vùng xích đạo, không phân biệt rõ rệt các kiểu
lục địa và đại dương.
2)- khối khí nhiệt đới (kí hiệu là T)
hình thành ở các vùng chí tuyến, chia ra hai kiểu : khối khí
nhiệt đới đại dương (kí hiệu là Tm)
và khối khí nhiệt đới lục địa (kí hiệu là Tc).
3)- khối khí cực ( kí hiệu là P) hình
thành ở các vùng ôn đới, cũng chia ra hai kiểu : khối khí
cực đại dương ( kí hiệu là Pm)
và khối khí cực lục địa (kí hiệu là Pc).
4)- khối khí băng cực (kí hiệu là A)
hình thành trên các vùng cực Bắc và cực Nam, cũng chia ra
hai kiểu : khối khí băng cực đại dương
(kí hiệu là Am) và khối khí băng cực lục địa (kí hiệu là Ac).
Mặt tiếp xúc giữa các khối khí nằm
ở các vĩ độ khác nhau và có các đặc tính nóng lạnh khác
nhau tạo nên các phrông. Giữa các khối
khí băng cực và cực là phrông băng cực. Giữa các khối
khí cực và nhiệt đới là phrông cực. Giữa
các khối khí nhiệt đới và xích đạo, do sự chênh lệch về
các đặc tính của chúng không lớn lắm, nên
sự hình thành các phrông không rõ rệt. Trong một
phrông, nếu khối khí lạnh chiếm ưu thế,
lấn át, đẩy lùi khối khí nóng thì đó là phrông lạnh. Nếu
ngược lại, khối khí nóng chiếm ưu thế,
đẩy lùi khối khí lạnh, thì đó là phrông nóng. Thời tiết ở
các vùng đất có phrông đi qua thường có
nhiều biến chuyển đột ngột và phức tạp, tuỳ theo sự
giằng co và hướng di chuyển của các khối
khí chiếm ưu thế.
KHỐI LIÊN HIỆP ANH
: khối tập hợp các quốc gia vốn có mối quan hệ mật thiết với Vương Quốc
Liên Hiệp Anh về các mặt chính trị, kinh tế và văn hoá. Hiện nay, cơ
cấu khối Liên Hiệp Anh
gồm có 51 quốc gia và lãnh thổ, trong đó
hầu hết là những quốc gia vốn là thuộc
địa cũ của đế
quốc Anh, nay đã giành được độc lập dân
tộc. Bên cạnh các quốc gia độc lập cũng còn 14 lãnh
thổ, còn là thuộc địa của Anh như : Hồng
Công (trả lại cho Trung Quốc vào tháng 7 năm
1997),
quần đảo Manvinat v.v...
KHỐI NÚI
: bộ phận núi ít nhiều bị cô lập, có chiều dài
và chiều rộng gần tương đương nhau. Khối
núi có thể hình thành do nhiều nguyên
nhân khác nhau (như : kiến tạo, phun trào măcma v.v...)
Ví dụ : khối núi Enbrut trong dải Capca,
khối núi Tatra trong dải Cacpat v.v...
KHU ÁP CAO
: khu vực không khí trên lục địa hoặc đại dương
có áp suất cao dần từ rìa vào trung
tâm. Gió thổi từ trung tâm ra ngoài tạo
thành khu khí xoáy tản. Phạm vi không gian của khu áp
cao thường rất rộng, đường kính có thể
tới 1.000km. Các khu khí áp cao được hình thành do hai
nguyên nhân : nhiệt ( sự giảm thấp nhiệt
độ về mùa đông ở các vùng trung tâm lục địa như : khu
áp cao Xibia, khu áp cao Nam Cực v.v...)
hoặc động lực ( sự gia tăng khí áp do các lớp không khí
bị dồn nén từ trên cao xuống thấp. Ví dụ
: khu áp cao cận nhiệt đới ở hai bán cầu Bắc và Nam).
Trong các khu áp cao do động lực, không
khí bị dồn nén, làm cho nhiệt độ tăng cao, không khí
trở nên khô khan, khó đạt trạng thái bão
hoà. Thời tiết ở đó thường trong sáng, có nắng to, nóng
về mùa hạ, lạnh về mùa đông. Nếu thời
gian bao phủ kéo dài thì các khu áp cao là nguyên nhân
sinh ra hiện tượng hạn hán.
Các khu khí áp cao còn gọi là các
khu khí xoáy tản hoặc khí xoáy nghịch.
KHU ÁP THẤP
: khu vực không khí trên lục địa hoặc
đại dương có áp suất thấp dần từ rìa vào trung
tâm. Gió thổi từ ngoài vào trung tâm tạo
thành một khu khí xoáy tụ. Các khu áp thấp cũng có
phạm vi không gian tương tự như các khu
áp cao. Nguyên nhân hình thành chúng cũng do nhiệt
và động lực. Trên bề mặt Trái Đất, vào
mùa hạ, ở các vùng lục địa lớn thường có
các khu áp thấp
hình thành do sự tăng cao nhiệt độ. Ví dụ
: khu áp thấp Bắc Ấn Độ. Ở vùng xích đạo cũng như
các vùng vĩ tuyến 600, thường
xuyên có các khu áp thấp do động lực. Ở đây có hiện tượng không
khí từ cực và không khí từ chí tuyến tràn
về (gió Tây), gặp nhau, bốc lên cao.
Trong quá trình
này, không khí hoá lạnh, tạo điều kiện
cho hơi nước bão hoà. Thời tiết trong
các khu áp thấp
thường âm u, có nhiều mây, mưa hoặc tuyết
rơi. Đặc biệt các khu áp thấp sâu, hình thành trên
các phrông cực và trên đường hội tụ nhiệt
đới thường là nguyên nhân sinh ra các
trận mưa lớn và
các cơn bão ( khu áp thấp nhiệt đới có
gió cấp 6-7).
Các khu khí áp thấp còn gọi là các
khu khí xoáy tụ hoặc khí xoáy thuận.
KHU BẢO TỒN
:
khu đất đai rộng lớn, dành cho việc lưu giữ các giống, loài thực vật và động
vật
quý, hiếm, trong đó chúng được tự do sinh
sống và phát triển.
KHU CHẾ XUẤT :
cách nói ngắn, gọn của thuật ngữ khu chế biến - xuất khẩu. Khu vực đất đai
trong một quốc gia thường có kết cấu hạ
tầng tốt, được Nhà Nước quy định cho hưởng một quy
chế đặc biệt để khuyến khích phát triển,
sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Trong một số nước
đang phát triển, việc thành lập các khu
chế xuất chủ yếu nhằm các mục đích : thu hút
sự đầu tư
vốn của các công ti tư bản nước ngoài để
xây dựng các cơ sở công nghiệp, nhập
cảng kĩ thuật,
thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ
và giải quyết công ăn, việc làm cho nguồn
lao động
dư thừa. Việc thành lập các khu chế xuất
hiện nay đã khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển
thuộc các châu Á, Phi và Mĩ Latinh.
KHU MẬU DỊCH TỰ DO : khu vực được các quốc gia chủ nhà quy định
dành cho những quy chế
ưu tiên và thuận lợi trong việc buôn bán
với nước ngoài như : miễn hoàn toàn các loại thuế
đánh vào các hàng xuất, nhập khẩu v.v...
KHU VỰC GIỜ
: khu vực trên bề mặt Trái Đất được quy định có
một giờ chung, thống nhất. Khu
vực này được giới hạn giữa hai kinh tuyến
cách nhau 150. Theo quy ước quốc tế, bề mặt Trái Đất
được chia ra làm 24 khu vực. Khu vực gốc
đánh số 0 được tính từ kinh tuyến 7030'
T đến 7030'Đ.
X.
thêm : Giờ khu vực.
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
:
tình trạng khó khăn về kinh tế xảy ra do sự cân bằng giữa sản xuất và
tiêu thụ bị phá vỡ. Kết quả dẫn đến là
hàng hoá tiêu dùng hoặc quá thiếu thốn (khủng hoảng
thiếu) hoặc quá dư thừa (khủng hoảng
thừa). Các cuộc khủng hoảng thừa thường dẫn đến tình
trạng buôn bán ế ẩm, công nhân thất
nghiệp, các cơ sở sản xuất phá sản... Trái lại, các cuộc
khủng hoảng thiếu lại dẫn đến tình trạng
hàng hoá khan hiếm, giá cả gia tăng, tiền tệ mất giá,
nạn đầu cơ, tích trữ lan tràn, đời sống
của công nhân, viên chức khó khăn, lạm phát...Ở các nước
có nền kinh tế không ổn định, thường xảy
ra các cuộc khủng hoảng theo chu kì.
KHỦNG LONG
:
loài bò sát khổng lồ sống phổ biến trong đại Trung sinh, hiện nay đã bị tuyệt
chủng. Về nguyên nhân, trước đây có nhiều
tài liệu cho rằng : đó là hậu quả của sự thay đổi khí
hậu trong thời kì băng hà kỉ Đệ Tứ, nhưng
gần đây, người ta lại cho rằng đó là hậu quả của một vụ nổ do một thiên thạch
khổng lồ rơi xuống Trái Đất.
KỈ ĐỆ TAM
: thời kì địa chất trong đại Tân sinh, kéo dài vào khoảng 70 triệu năm và được
đặc trưng
bằng cuộc vận động tạo sơn lớn : Anpi,
Himalaya, Anđet...và sự phân hoá ra các
động vật có vú.
KỈ ĐỆ TỨ : thời kì cuối cùng trong lịch sử Trái Đất, bắt
đầu cách đây khoảng 1 triệu năm và còn
kéo dài đến ngày nay. Kỉ Đệ Tứ được đánh
dấu bằng sự xuất hiện và quá trình tiến hoá của con
người. Ở châu Âu và Bắc Mĩ, thời kì này
cũng được đánh dấu bằng nhiều đợt băng hà lục địa lớn.
KĨ
THUẬT : tập hợp các phương tiện, thiết
bị, máy móc cũng như các biện pháp sử dụng chúng
nhằm mục đích sản xuất, tạo ra các sản
phẩm mới hoặc phục vụ các nhu cầu khác của xã hội.
KIẾN TẠO HOÀ BÌNH :
(peace making) thuật ngữ chỉ sự lập lại hoà bình thông qua việc giải quyết
hoà bình các vấn đề tranh chấp quốc tế.
KIẾN TẠO MẢNG
: thuyết về sự hình thành và phân bố các lục địa và đại dương trên bề mặt Trái
Đất. Thuyết này được xây dựng dựa trên
các thuyết về lục địa trôi và về sự tách giãn liên tục của
đáy các đại dương. Theo thuyết kiến tạo
mảng thì nguyên nhân sinh ra hiện tượng các lục địa
trôi, chủ yếu là do sự phun trào măcma từ
các sống núi dưới đáy đại dương. Ở đó các dòng
măcma lỏng từ dưới sâu luôn luôn trào
lên, làm cho mảng vỏ đáy đại dương dần dần tách ra, dồn
ép vào các mảng lục địa, đẩy chúng di
chuyển. Hiện tượng này đã xảy ra từ 180 triệu năm trước
đây và vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày
nay. Ví dụ : hai bờ Đại Tây Dương hiện nay trung bình
mỗi năm cách xa nhau thêm 3cm, còn hai bờ
Thái Bình Dương thì vào khoảng từ 8 đến 10cm.
Cũng theo thuyết này thì các lục địa trên
bề mặt Trái Đất hiện nay, xưa kia vốn từ
một lục địa
duy nhất tách ra. Quá trình phân hoá
thành các mảng lục địa được phức tạp hoá thêm do những
hoạt động đổ vỡ mới xaỷ ra cách đây từ 10 đến
20 triệu năm, hình thành nên Hồng Hải và các
đứt gãy ở Trung Phi.
KIM CƯƠNG
:
khoáng vật có độ cứng lớn nhất trong các loại khoáng và kim loại. Về thành phần
hoá học, kim cương là nguyên tố cacbon
tinh khiết. Kim cương có độ sáng và màu sắc rực rỡ hơn
hẳn các loại đá quý khác, vì vậy nó có
giá trị cao trong việc chế tạo các đồ trang sức, các mũi
khoan, mũi dao cắt kính v.v...Phần lớn
kim cương được hình thành trong dung nham ở các ống
phun của núi lửa đã tắt. Nơi có nhiều mỏ
kim cương lớn nhất thế giới hiện nay là
vùng Nam Phi.
Trọng lượng của kim cương thường được
tính bằng đơn vị cara ( 1 cara = 0,2g).
KIM LOẠI ĐEN
:
các kim loại có màu xẫm thường dùng trong công nghiệp gang thép ( công nghiệp
luyện
kim đen) như : sẵt, mangan và crôm.
KIM LOẠI HIẾM :
nhóm kim loại mà trong đời sống thường ngày chúng ta ít tiếp xúc và ít nói
tới.
Có thể là do hàm lượng của chúng trong
lớp vỏ Trái Đất có tỉ lệ rất thấp ( như : Bêri, Gecmani ...)
hoặc mức độ phân tán của chúng quá cao
(mặc dầu hàm lượng trong lớp vỏ Trái Đất không thấp,
như : Rubiđi...) hoặc kĩ thuật khai thác và tinh luyện còn gặp
nhiều khó khăn, lượng sản xuất
chưa nhiều ( Ví dụ : titan, urani..).
Danh mục các kim loại hiếm luôn luôn thay đổi do trình độ
khoa học và kĩ thuật khai thác phát
triển. Ví dụ : trước đây, nhôm được coi
là kim loại hiếm. Nó
được khai thác từ giữa thế kỉ 19 ở Pháp,
nhưng vì giá thành sản xuất cao, nên trong một thời gian
dài, nó chỉ dùng để làm các đồ trang sức.
Trong một Hội nghị quốc tế, Menđêlêep đã được tặng
một chiếc bình bằng nhôm, coi như một
tặng phẩm quý giá. Ngày nay, nhôm đã trở thành một
kim loại thông dụng, không còn hiếm như
hơn một thế kỉ trước đây.
KIM LOẠI MÀU :
nhóm các kim loại có nhiều màu sắc khác nhau như : đồng, chì, kẽm, niken,
nhôm, côban v.v... Trong lớp vỏ Trái Đất,
các kim loại màu thường có tỉ lệ phân tán cao.
Hàm lượng của chúng trong quặng ít khi
vượt quá 5%, vì vậy việc chế luyện các kim loại màu
thường khó khăn và phải sử dụng một lượng
nguyên liệu rất lớn.
KIM LOẠI QUÝ
:
nhóm kim loại có những tính chất đặc biệt như : không rỉ, có ánh kim và màu sắc
đẹp. Con người từ xưa đã biết sử dụng
chúng để làm các đồ trang sức và làm vật trung gian để
trao đổi
hàng hoá. Ví dụ : vàng, bạc, bạch kim...
KIM NGẠCH
: tổng giá trị ngoại thương ( hàng hoá xuất, nhập khẩu) đạt được trong một thời
gian
nhất định.
KINH ĐỘ ĐỊA LÍ :
độ dài của cung trên một vĩ tuyến, từ một địa điểm nhất định trên bề mặt Trái
Đất đến kinh tuyến gốc. Nếu địa điểm nằm ở phía đông kinh tuyến gốc thì là kinh độ
Đông (Đ),
nếu ở phía tây kinh tuyến gốc thì là kinh
độ Tây (T). Đơn vị tính là : độ, phút, giây. Ví dụ : kinh
độ của đảo Cồn Cỏ, ở ngoài khơi nước ta
là : 107021' Đ.
KINH TẾ CÓ KẾ HOẠCH :
nền kinh tế có định hướng và do Nhà Nước kiểm soát, nhằm mục đích
hi vọng loại trừ các cuộc khủng hoảng và
phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Trong nền kinh
tế này, Nhà Nước nắm trong tay một số
lĩnh vực quan trọng như : tiền tệ, tài chính, thuế má, giá
cả, vốn đầu tư v.v...
KINH TẾ HƯỚNG NGOẠI :
nền kinh tế hướng vào việc phát triển
các ngành sản xuất phục vụ cho
xuất khẩu. Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn các nước đang phát triển
đều có nền kinh tế
hướng ngoại. Đó cũng là một biểu hiện của
tình trạng phụ thuộc vào nước ngoài về mặt kinh tế.
KINH TẾ HƯỚNG NỘI :
nền kinh tế hướng chủ yếu vào việc phát triển các ngành sản xuất phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng trong nước. Nền
kinh tế này rất quan tâm đến việc nâng cao giá trị các tài
nguyên quốc gia và mau chóng phát triển
thị trường nội địa.
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
: 1)- nền kinh tế trong đó sự cân bằng về cung và cầu chỉ hoàn toàn phụ
thuộc vào các cơ chế tự nhiên do thị
trường chi phối.
2)-
nền kinh tế sản xuất hàng hoá phục vụ
chủ yếu cho việc trao đổi trên
thị trường.
KINH TẾ TỰ CHỦ :
nền kinh tế không bị sự chi phối của nước ngoài, trong đó bộ máy sản xuất có
khả năng cung cấp gần như toàn bộ các sản
phẩm đáp ứng cho thị trường quốc gia, Ví
dụ : nền
kinh tế của Ấn Độ, Trung Quốc...
KINH TẾ TỰ DO
:
nền kinh tế trong đó Nhà Nước để cho tư nhân nắm quyền sở hữu đất đai và các
xí nghiệp công nghiệp. Nền kinh tế này
phụ thuộc vào thị trường và chỉ quan tâm đến khâu tiêu
thụ.
KINH TẾ TỰ CẤP, TỰ TÚC
:
nền kinh tế trong đó các hoạt động sản xuất chỉ nhằm thoả mãn
những nhu cầu nội địa hoặc địa phương.
Nền kinh tế này đối lập với nền kinh tế thị trường, trong
đó người sản xuất làm ra hàng hoá với mục
đích bán ra ngoài và thiên về các sản phẩm có khả
năng thương mại hoá.
KINH TUYẾN ĐỊA LÍ :
đường ngắn nhất trên bề mặt Trái Đất, nối hai cực Bắc và Nam của Trái Đất.
KINH TUYẾN GỐC
: kinh tuyến được đánh số 0 (theo quy ước quốc tế) đi qua đài thiên văn Grinuýt
ở ngoại ô thành phố Luân Đôn.
KINH TUYẾN TỪ
:
đường nối hai từ cực Bắc và Nam của Trái Đất, phù hợp với hướng Bắc - Nam
của kim nam châm. Hướng của kinh tuyến từ
không hoàn toàn trùng với hướng của kinh tuyến
địa lí. Góc lệch hình thành giữa kinh
tuyến từ và kinh tuyến địa lí, ở bất cứ địa điểm nào, gọi là :
góc
hay độ từ thiên.
KÍNH THIÊN VĂN
:
dụng cụ quang học dùng để quan sát các thiên thể trên bầu trời.
HLTcoffee.com