Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (M)
Sổ tay Thuật ngữ Địa Lý (M)
M
MADUT
: loại dầu đen và sánh dùng làm chất đốt. Madut
là loại dầu còn lại sau khi chưng cất
dầu mỏ thô ở nhiệt độ 3500C.
MAKÊTINH
: một trong những chế độ quản lí xí nghiệp, đòi
hỏi những người sản xuất phải tính toán sao cho sản phẩm làm ra, tiêu thụ được
tối đa trên thị trường. Còn gọi là phương pháp tiếp cận thị trường hay tiếp
thị.
MAKI
: kiểu rừng cây bụi rậm rạp mọc xen lẫn với
nhiều cây thân gỗ to nhỏ, xanh tươi quanh
năm. Các maki điển hình thường gặp ở vùng Địa Trung Hải, hình thành trên
các vùng đất xấu thuộc các khối núi cổ. Theo nghĩa bóng, maki còn chỉ những nơi
ẩn náu của những kẻ phạm tội, những người sống không lương thiện.
MAMÚT
: loài voi cổ sinh sống ở kỉ Đệ Tứ, xác còn tìm
thấy trong các lớp băng dày ở Xibia.
Mamut có thân cao tới 3,5 m, lông dày.
Đôi ngà to và cong quặt về phía trán.
MANHÊTIT
: quặng sắt có chất lượng cao. Còn gọi là quặng từ thiết hay quặng sắt từ.
Thành phần chủ yếu là ôxyt sắt ba (Fe3O4).
Mỏ manhêtit ở Kiruna ( Thuỵ Điển) là mỏ tốt nổi tiếng trên thế
giới.
MÃ
LAI : 1)- dân tộc sinh sống trên bán đảo Malăcca và
quần đảo Xơnđa.
2)- ngôn ngữ phổ biến của các
dân tộc ở vùng Đông Nam Á ( trên bán đảo Malăcca và vùng ven bờ các đảo thuộc
Inđônêxia.
MACGALIT
: loại đất đen nhiệt đới phát triển
trong điều kiện khí hậu ẩm và khô hạn mạnh xen kẽ nhau. Lượng mùn trong đất có
từ 0,8 đến 2%, thấm sâu theo các kẽ nứt trong toàn phẫu diện. Loại đất macgalit
điển hình thấy rõ nhất ở Inđônêxia.
MẠCH
NÚI : tập hợp núi, cao thấp khác nhau, hoặc nối
liền với nhau, hoặc đứt đoạn, nhưng kéo dài thành một vệt, một dải. Đồng nghĩa
với dải núi.
MẠCH
QUẶNG : vệt quặng
hoặc lớp quặng mỏng, kéo dài liên tục, nằm xen vào giữa mặt tiếp
giáp của hai lớp đá.
MÀI
MÒN : hiện tượng xâm thực cơ giới các loại đá bằng
vật liệu rắn (cuội, cát, đá tảng...) do các dòng nước chảy, băng hà, gió thực
hiện dưới tác dụng của trọng lực. Hoạt động mài mòn làm
cho bề mặt lớp đá tiếp xúc nhẵn nhụi, nhưng cũng có trường hợp, tạo
thành những máng những vệt trũng sâu
hoặc những hố lõm. Hình thức này gọi là khoét mòn.
MANGAN
: khoáng sản kim loại màu xám, dùng trong công
nghiệp luyện kim đen để luyện các loại thép đặc biệt.
MANTUÝT
: ( T.R.Malthus ) mục sư người Anh, đồng thời là giáo sư Sử học
và Kinh tế - Chính trị học ( 1766 - 1834), người đã đề ra thuyết " nhân mãn", cũng
gọi là thuyết Mantuýt. Thuyết này cho
rằng : sự gia tăng dân số bao giờ cũng phát triển theo cấp số nhân, còn sự gia
tăng lương thực, thực phẩm thì lại theo cấp số cộng. Do đó hiện tượng phát
triển dân số quá nhanh, bao giờ cũng dẫn đến tình trạng rối loạn trật tự trong
đời sống xã hội. Ông đề nghị cần phải loại bỏ số người thừa đó ra khỏi xã hội.
Thuyết Mantuýt đã được bọn thực dân sử
dụng để bào chữa cho chính sách bóc lột, đàn áp
tàn bạo của các đế quốc đối với các thuộc địa lúc bấy giờ. Sau này, khi
Mantuýt chết rồi, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất trên toàn thế giới
trong thế kỉ 19, đời sống nói chung của loài người được nâng cao, nên thuyết
nhân mãn cũng dần dần bị lãng quên. Đến đầu thế kỉ 20, sự áp bức bóc lột của
chủ nghĩa đế quốc đã đưa nhân dân lao động thế giới đến bờ vực đói khổ, thuyết
Mantuýt lại được phục hồi và khoác một nhãn hiệu mới : thuyết Tân Mantuýt.
Thuyết này được diễn đạt khi thì che đậy, mềm mỏng, khi thì trắng trợn, hung
bạo, nhằm đổ lỗi cho sự gia tăng dân số
đã gây ra tình trạng nghèo đói lạc hậu của các nước thuộc địa, làm lu mờ tội
lỗi của chủ nghĩa thực dân. Mantuýt khi đề ra chủ nghĩa nhân mãn đã có nhận xét
khá chính xác về tình trạng gia tăng dân số và sản xuất
lương thực, thực phẩm trên thế giới lúc bấy giờ, nhưng sai lầm cơ bản của ông
là cách giải quyết vấn đề. Ông cho rằng : để lập lại sự cân bằng giữa vấn đề dân số và lương thực, thực phẩm thì cách hợp lí
nhất là phải loại ra khỏi xã hội số người dư thừa, vì vậy chiến tranh,
bệnh tật... không phải là những thảm hoạ của thế giới, mà chỉ là những biện
pháp duy trì sự cân bằng trong xã hội.
MẠNG
LƯỚI GIAO THÔNG :
toàn bộ hệ thống đường giao thông các loại (đường bộ, đường thuỷ, đường không) được phân
bố xen kẽ nhau, hỗ trợ cho nhau trên một lãnh thổ.
MẠNG
LƯỚI THUỶ VĂN : toàn bộ hệ thống các dòng chảy, các
thuỷ vực (hồ, ao...) có quan hệ với nhau và được phân bố rải rác khắp trên diện
tích một lãnh thổ.
MAO
DẪN : ( trong thổ nhưỡng) phương thức di chuyển từ
từ của nước trong các lớp đất từ dưới
sâu lên trên mặt theo các ống dẫn nhỏ gọi là ống mao dẫn hay mao quản
(các khe hổng giữa các hạt đất mịn).
MAORI
: tên một tộc người bản địa sinh sống trên quần
đảo Niu Dilen.
MAYA
: dân tộc đã sinh sống trên bán đảo Yucatan
thuộc Trung Mĩ và trên lãnh thổ các nước Hônđurat, Goatêmala từ mấy nghìn năm trước CN. Nền văn minh của
người Maya phát triển rực rỡ nhất trong khoảng từ thế kỉ 8 đến thế kỉ 13 . Các di tích còn lại gồm nhiều công trình xây dựng tiêu biểu
là các kim tự tháp cụt, các lâu đài nhiều tầng bằng các khối đá xếp chồng lên
nhau. Các công trình này được trang trí bằng nhiều hình hình học, các mặt nạ cách điệu, các bức điêu hoạ
rắn lông chim và chữ tượng hình.
MÁY
ĐO ĐỘ CAO : X. Antimet
MÁY
ĐO GIÓ : ( phong kế)
dụng cụ đo tốc độ gió. Loại phổ biến hơn cả là máy đo gió gáo, gồm có 4 nửa cầu rỗng ( giống như những chiếc gáo
múc nước ) gắn trên một trục. Khi có gió
thổi , các gáo chuyển động làm quay một bộ phận đếm số vòng. Tốc độ gió càng
lớn , gáo càng quay nhanh, thì số vòng ghi được càng nhiều. Dựa vào số ghi ở bộ
phận đếm số, người ta có thể biết được
gió mạnh hay yếu.
MÁY
HỒI ÂM : máy đo độ
sâu của đáy biển và đại dương dựa trên nguyên tắc tính thời gian
truyền qua môi trường nước biển ( một lần
truyền âm từ mặt nước xuống đáy biển và một lần truyền hồi
âm từ đáy biển trở về mặt nước ).
Nếu biết được tốc độ của âm thanh
truyền trong nước biển và thời gian từ lúc phát âm
đến lúc nhận được hồi âm thì có thể tính
ra khoảng cách mà âm thanh đã truyền
qua. Khoảng cách đó là độ sâu của đáy biển hoặc đại dương.
MÁY
KINH VĨ : dụng cụ để ngắm và đo các góc theo mặt phẳng nằm
ngang hoặc mặt phẳng đứng, dùng trong quá trình đo vẽ địa hình và nghiên cứu thiên văn.
MÁY
THU, PHÓNG BẢN ĐỒ : dụng cụ đơn giản để vẽ lại các bản đồ
đã có, theo những tỉ lệ to, nhỏ (thu, phóng ) tuỳ ý. Máy hoạt động dựa trên
nguyên tắc biến đổi các góc của hai hình tam giác đồng dạng .
MĂCMA
:
tên chung chỉ các loại đá đặc quánh,
nóng chảy nằm ở dưới sâu, trong lớp vỏ Trái Đất , nơi có nhiệt độ trên 1.0000 C .
MẶT
TRĂNG : thiên thể
quay quanh Trái Đất và cách xa Trái Đất trung bình 384.000 km. Bán
kính của Mặt Trăng bằng 1.738 km. Trọng
lực của nó so với Trái Đất nhỏ hơn 6 lần. Mặt Trăng không tự phát ra ánh sáng,
mà được Mặt Trời chiếu sáng. Từ Trái Đất
nhìn lên, Mặt Trăng có lúc tròn, lúc khuyết, chính là vì người quan sát
trên Trái Đất đã nhìn thấy Mặt Trăng ở các vị thế khác nhau khi nó chuyển động quanh Trái Đất.
Khi Mặt Trăng quay toàn bộ nửa được chiếu sáng về phía Trái Đất, thì lúc đó là
thời kì trăng tròn ( giữa tháng). Nếu toàn bộ nửa nằm trong bóng tối quay về
phía Trái Đất , thì lúc đó là thời kì
không trăng ( đầu tháng ) . Ở vị trí trung gian, nếu Mặt Trăng quay về phía
Trái Đất chỉ một bộ phận được chiếu sáng
và một bộ phận ở trong tối, thì đó là thời kì trăng khuyết (thượng tuần và hạ tuần ). Mặt Trăng quay một
vòng trọn vẹn xung quanh Trái Đất hết 27
ngày 1/3. Tuy nhiên, trong thời
gian Mặt Trăng quay quanh Trái
Đất, Trái Đất vẫn di chuyển trên quỹ đạo
quanh Mặt Trời, vì vậy để trở lại vị thế xuất phát, Mặt Trăng phải di
chuyển hơn 2 ngày ( * ) nữa (Ví dụ : vị thế xuất phát là ngày rằm (trăng tròn ) thì khi Mặt Trăng có lại vị thế
trăng tròn phải mất tất cả 29 ngày 1/2 ). Chính vì vậy nên 1 tháng
âm lịch phải có 29 hoặc 30 ngày.
Có một điều đáng lưu ý là thời gian
và hướng quay của Mặt Trăng quanh Trái
Đất hoàn toàn trùng hợp với thời gian và hướng tự quay của nó quanh trục, vì
vậy người quan sát trên Trái Đất bao giờ cũng chỉ nhìn thấy một phía của Mặt Trăng, mà không
bao giờ nhìn thấy phía bên kia. Một ngày trên Mặt Trăng như vậy là bằng một
tháng trên Trái Đất. Trên Mặt Trăng cũng không có khí quyển , vì vậy thế giới
trên Mặt Trăng là một thế giới không có âm thanh, không có các hiện tượng khí
tượng như : mây, mưa, sấm, chớp v.v.. Biên
độ nhiệt giữa ngày và đêm của Mặt
Trăng rất lớn (tới 2900 C ).
Quá trình phong hoá các loại đá ở đây chỉ xẩy ra do sự thay đổi của nhiệt độ .
MẶT
TRỜI : thiên thể lớn nằm ở trung tâm hệ Mặt Trời. Đường
bán kính của nó lớn gấp 109 lần đường
kính Trái Đất. Khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến Mặt Trời bằng 149,5 triệu
km. Mặt Trời có thể coi như một khối hơi cháy khổng lồ. Càng đi sâu vào trung
tâm, nhiệt độ và áp suất càng tăng. Bộ
phận bên ngoài Mặt Trời phát ra ánh sáng, có nhiệt độ cao gần 6.0000C
là lớp quang cầu. Bên ngoài lớp quang cầu là lớp sắc cầu. Ánh sáng của Mặt Trời
đi đến Trái Đất phải mất 8 phút 18 giây.
Trên Mặt Trời thường xuất hiện những
lưỡi lửa dài và nhiều vết đen có nguồn gốc chưa rõ. Hoạt động của chúng thường
được tăng cường theo chu kì khoảng 11 năm. Vào những thời kì đó, trên Trái Đất
thường xảy ra các hiện tượng bất thường như : cực quang, bão từ hoặc những sự
thay đổi lớn về thời tiết, khí hậu, thuỷ văn v.v...
MẬT
ĐỘ DÂN SỐ : số dân cư trung bình sinh sống trên một đơn vị
diện tích lãnh thổ (km2). Ví dụ : mật độ dân số châu Âu năm 2.000 là
: 832 ng/km2.
MẬT
ĐỘ SÔNG NGÒI : tương quan tỉ lệ giữa chiều dài tổng
cộng của tất cả các sông ngòi (tính
bằng km) chảy trên một đơn vị diện tích
lãnh thổ ( tính bằng km2). Ví dụ : chiều dài tổng cộng của các sông
ngòi chảy trên một lãnh thổ rộng 120 km2
là 180 km. Mật độ sông ngòi trên lãnh thổ đó bằng : 180 / 120 = 1,5km/km2.
MÂY : hình thức ngưng tụ hơi nước trong khí quyển ở
trên cao dưới dạng các hạt nước nhỏ li ti hoặc các hạt băng lơ lửng thành từng
đám, mà mắt thường có thể nhìn thấy được. Tuỳ theo hình dáng và độ cao xuất
hiện, mây được phân ra 4 loại chính : mây ti, (Ci), mây tích (Cu), mây tầng
(St) và mây vũ (Ni). Mây ti là loại mây mỏng, màu trắng, trong suốt trông giống
như những dải khăn voan, hình thành do các hạt băng nhỏ ở độ cao từ 10 đến
12km. Mây ti là dấu hiệu của những ngày có thời tiết nắng, đẹp. Mây tích là
loại mây có hình thù giống như những khối bông xốp trắng, lơ lửng ở độ cao
khoảng dưới 10km trong lớp khí quyển.
Mây tích là dấu hiệu của những ngày nắng nóng nực, có hiện tượng bốc hơi
nước mạnh. Mây tầng là loại mây thấp, màu xám, lơ lửng ở độ cao dưới 2.000m, có
hình thù giống như một bức màn giăng
liên tục trên bầu trời vào những ngày thời tiết xấu, có thể có mưa phùn. Mây vũ
là loại mây thấp, có màu xám sẫm do sự tích tụ các hạt nước có kích thước lớn.
Đây là loại mây báo hiệu loại thời tiết
có mưa rào. Theo sự phân loại gần đây thì mây vũ không phải là một loại
mây riêng mà thường phối hợp với
các loại mây tầng và mây tích thành các loại mây vũ tầng và vũ tích.
MÂY
TẦNG TÍCH :
(Strato-cumulus) mây có hình thù
như một thảm vẩy tê tê hoặc một bức màn che gợn sóng hình thành ở độ cao
khoảng 2.000m.
MÂY
TI TẦNG :
(Ciro-Stratus) loại mây ti trong
suốt, che kín bầu trời như một bức màn voan
mỏng.
MÂY
TRUNG TÍCH : (Alto- cumulus) mây tích hình thành ở độ cao trung bình,
thường không quá 4.000m.
MÂY
TÍCH VŨ :
(Cumulo-Nimbus) loại mây tích có
hình dạng các khối lớn màu xám đen, báo
hiệu những cơn mưa lớn sắp tới.
MÊGAOÁT
: (MW) đơn vị công suất bằng 1 triệu W
hay 1.000 kW.
MÊLANÊDIÊNG
:
thuật ngữ chỉ dân cư sinh sống trên các
đảo rải rác trong quần đảo Mêlanêdi ở
phía nam Thái Bình Dương.
MÊRINÔT
: giống cừu gốc ở Tây Ban Nha, có bộ
lông rất dày, là nguyên liệu có giá trị cao trong công nghiệp chế biến len.
MÊTRÔ
: phương tiện giao thông ngầm dưới mặt đất, được
thiết lập ở các đô thị lớn trong các
nước phát triển, nhằm giải quyết tốt vấn
đề đi lại của nhân dân giữa các khu vực nội thị và giảm bớt tình trạng tắc
nghẽn xe cộ trên mặt đất.
MICA
: khoáng vật có trong thành phần của
nhiều loại đá măcma và biến chất như : granit,
mica phiến nham v.v...Thành phần hoá học gồm :
silicat nhôm và kali. Có hai loại : mica
trắng (muxcôvit và mica đen (biôtit).
MÔĐUYN DÒNG CHẢY : tương quan
giữa lượng nước chảy trung bình của một con sông hoặc của nhiều sông ( tính
bằng lít hoặc m3) với một đơn vị thời gian ( tính bằng giây) trên
một đơn vị diện tích lưu vực hoặc lãnh
thổ ( tính bằng km2). Ví dụ : môđuyn dòng chảy ở Nông Sơn trên lưu vực sông Thu Bồn là : 79,8
lít/s/km2 ; môđuyn dòng chảy ở Thuận Hải bằng 3-5 lít/s/km2.
Để tính được môđuyn dòng chảy ở lưu
vực một con sông hoặc ở một lãnh thổ, người ta chia lưu lượng của con sông hoặc
tổng lưu lượng của các con sông chính chảy trên
lưu vực hoặc lãnh thổ đó cho diện tích của nó. Kết quả được biểu hiện
bằng lít/s/km2 hoặc m3/s/km2. Đặc điểm của môđuyn dòng chảy thường được sử
dụng để nghiên cứu tình hình thuỷ văn
hoặc xây dựng bản đồ dòng chảy của lãnh thổ.
MÔI
TRƯỜNG : thuật
ngữ chỉ toàn bộ các hệ thống tự nhiên và
hệ thống do con người tạo ra ở xung
quanh mình, trong đó con người sinh sống
và bằng sức lao động của mình đã khai thác tài
nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo
cho phép thoả mãn những nhu cầu của mình (định
nghĩa của UNESCO- 1981). Môi trường lại phân ra nhiều loại : môi trường tự nhiên, môi trường
sống, môi trường xã hội, môi trường địa
lí vv...
MÔNGÔLÔIT
: đại chủng tộc có màu da vàng (hoặc nâu vàng),
tóc đen, mắt đen (hoặc nâu), mũi
thấp (hoặc trung bình), sống chủ yếu ở châu Á và châu Mĩ. Hiện nay chủng tộc
Môngôlôit có mặt ở tất cả các châu lục.
MÙA
:
khoảng thời gian trong năm, có những đặc điểm riêng về thời tiết và khí hậu. Ở
ôn đới, sự phân hoá ra 4 mùa trong năm khá rõ rệt. Mùa xuân bắt đầu từ ngày
21/3 đến 22/6, mùa hạ từ
22/6 đến 23/9, mùa thu từ 23/9 đến 22/12
và mùa đông từ 22/12 đến 21/3. Theo âm dương lịch, (được dùng phổ biến ở nước
ta và Trung Quốc), thì sự phân chia các
mùa có khác so với cách chia trên. Mùa Xuân bắt đầu từ tiết Lập xuân (4/2 dương lịch) đến tiết
Lập hạ (5/5 DL ), mùa Hạ từ tiết Lập hạ đến tiết Lập thu (7/8 DL ), mùa
Thu từ tiết Lập thu đến tiết Lập đông (7/11 DL) và mùa Đông, từ tiết Lập đông
đến tiết Lập xuân. Ở vùng nhiệt đới gió
mùa như nước ta, sự
phân hoá ra các mùa cũng có sự khác
biệt. Ở miền Bắc nước ta có hai mùa tương đối dài và rõ
rệt là mùa hạ nóng và và mùa đông lạnh.
Hai mùa xuân và thu tương đối ngắn và không thể hiện rõ. Ở
miền Nam nước ta, chủ yếu lại chỉ có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, các
mùa Xuân và Thu chỉ là các thời kì chuyển tiếp.
MÚI GIỜ : X. Khu
vực giờ .
MŨI
ĐẤT : bộ phận đất liền nhô ra biển, có thể là
đoạn cuối của một khối núi hoặc một dải đất kéo dài ra phía biển.
MÙN
:
hợp chất hữu cơ có màu đen được hình thành trong quá trình phân giải xác các
động, thực vật dưới tác động của vi sinh vật. Chất mùn có ảnh hưởng rất lớn đến
độ phì của thổ nhưỡng. Lượng mùn càng cao, đất càng tốt. Trong phẫu diện thổ
nhưỡng, tầng trên cùng là tầng chứa mùn được kí hiệu là A1. Loại đất
giàu chất mùn nhất là đất Checnôdiom ở
các vùng thảo nguyên ôn đới khô.
MUỐI
MỎ : khoáng vật trầm tích có thành phần chủ yếu là
các muối clorua và sunphat natri. Loại tinh khiết có màu trắng, trong và dễ tan
trong nước. Muối mỏ nằm thành từng lớp, đôi khi có độ dày hàng trăm mét, được
hình thành trong điều kiện các vũng biển, phá, hồ cổ bị khô hoá. Do thành phần
của các loại muối mỏ có khác nhau, nên
có nhiều loại muối mỏ có giá trị công nghiệp cao.
MƯA
: hình thức nước rơi chủ yếu của khí
quyển từ các đám mây vũ tầng và vũ tích xuống mặt đất. Các hạt nước mưa thường
có đường kính từ 0,5 đến 7mm.
MƯA
AXIT : hiện tượng
mưa xảy ra trong điều kiện không khí bị ô nhiễm do có chứa một tỉ lệ cao ôxyt
lưu huỳnh (SO2). Ở các thành phố công nghiệp lớn, trong khói của các
lò cao và khí thải của các loại động cơ ô tô, xe máy v.v...thường có chứa một
lượng lớn khí SO2. Khi gặp nước mưa, ôxyt lưu huỳnh hoá
hợp với nước thành axit sunphuaric, vì vậy gọi là mưa axit.
MƯA
ĐÁ : hình thức nước rơi ở thể rắn, chủ yếu gồm các
hạt nước đá có đường kính từ 5 đến 5,5 mm hoặc lớn hơn nữa. Mưa đá thường xảy
ra trong điều kiện thời tiết nóng, oi bức về mùa hạ, khi các luồng khí đối lưu từ mặt đất bốc
lên rất mạnh, khiến cho các hạt nước mưa bị đẩy bật lên cao nhiều lần, trở
thành các hạt băng. Các hạt băng lớn dần qua mỗi lần bị đẩy bật lên cao, cuối cùng rơi xuống đất thành các hạt
mưa đá. Mưa đá thường xảy ra trong một thời gian ngắn, trên một phạm vi lãnh thổ nhỏ, hẹp,
nhưng tác hại phá hoại mùa màng của nó đối với
nông nghiệp lại rất lớn.
MƯA
ĐỊA HÌNH : hình thức
mưa sinh ra do ảnh hưởng của địa hình miền núi. Các luồng khí ẩm, trên đường di
chuyển, khi gặp các sườn núi chắn ngang, bắt buộc phải bốc lên cao, hoá lạnh,
làm cho một lượng lớn hơi nước ngưng tụ lại thành mưa.
MƯA
ĐỐI LƯU : hình thức
mưa xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn, nhưng có cường độ lớn. Còn gọi
là mưa rào. Nguyên nhân sinh ra mưa chủ
yếu là hiện tượng đối lưu của không khí. Trong các ngày nắng, nóng, các dòng
không khí bốc lên cao, hoá lạnh, làm cho một lượng lớn hơi nước ngưng tụ, sinh
ra mưa. Mưa đối lưu thường xảy ra trong các buổi chiều mùa hạ, kèm theo sấm,
chớp.
MƯA
PHÙN
: hình thức mưa có hạt nhỏ và kéo dài
trong nhiều ngày, thường thấy vào các mùa đông và xuân ở miền Bắc nước ta.
MƯA
RÀO : mưa đột xuất, ngắn và thường có kèm theo sấm chớp.
X. Mưa đối lưu.
MỨC
SỐNG : khái niệm
có ý nghĩa rất tương đối, chỉ mức thoả mãn những nhu cầu về vật chất và tinh
thần của con người (hoặc mức thu nhập tương ứng với sự đảm bảo những nhu cầu
đó). Theo quan niệm khá phổ biến trên thế giới hiện nay, thì mức sống được biểu
hiện ở một số chỉ tiêu sau : 1) - mức tiêu thụ năng lượng theo đầu người,
2) - mức ăn tính theo số lượng
calo trung bình hàng ngày cho mỗi người và
3) - trình độ được giáo dục,
được chăm sóc về mặt sức khoẻ.
MỰC
CƠ SỞ : mực nước
thấp nhất trong lòng của một con sông, mà nó nhằm đạt tới trong suốt quá trình
xâm thực theo chiều sâu. Đối với các con sông chảy ra biển, thì mực cơ sở là
mực nước biển, đối với các con sông chảy vào hồ, thì mực cơ sở là mực nước
trong hồ. Thời gian một con sông đào lòng đến mực cơ sở dài hay ngắn là tuỳ
thuộc vào các điều kiện như : sông lớn hay nhỏ, đá ở đáy sông cứng hay mềm
v.v...
MỰC
NƯỚC BIỂN : mực chuẩn
được dùng để tính độ cao của địa hình, căn cứ vào mực nước trung bình ở biển
trong trường hợp không có sóng, thuỷ triều và các nhiễu động khác.
HLTcoffee.com - Vị thật cafe Việt