HLT.vn - iDiaLy.com - DiaLy.edu.vn
Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO
Admin: Tài trợ bởi: HLT.vn - Cung cấp cà phê và máy cà phê - 06/09/2015
TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Tính đến ngày 26 tháng 6năm 2014, WTO có 160 thành viên.
I. Bối cảnh ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - tiền thân của tổ
chức thương mại quốc tế (WTO)
Sau chiến tranh Thế giới
II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế
giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn
như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với
các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc
tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng
2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc triệu tập một "Hội nghị
Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương
cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những
chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy
định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và
dịch vụ.
Công
việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến hành trong năm 1946
và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh
việc tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO,
các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa phương. Trong
vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có
ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5
tổng giá trị thương mại thế giới. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức
và "tạm thời" một số quy tắc thương mại trong Dự thảo Hiến chương ITO
nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả trọn gói gồm các quy
định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp đinh chung
về Thuế quan và Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp
định phụ trợ nằm trong Hiến chương ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến
chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc, các
nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hoá thương mại, và bắt đầu khắc phục những hậu
quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy, ngày 23/10/1947 , 23 nước đã ký
"Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời" (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1948 , thông qua nghị
định thư này, Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi.
Trong
thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối cùng, tháng
3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về Thương mại và Việc
làm của Liên hiệp quốc tại Havana .
Tuy nhiên, quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc
biệt là Quốc hội Mỹ rất phản đối Hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã
đóng vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950, Chính
phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua Hiến chương Havana nữa, do vậy trên
thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng. Và mặc dù chỉ là tạm thời, GATT
trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948
cho đến tận năm 1995, khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời.
Trong
48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán:
Năm
|
Địa điểm/Tên
|
Chủ đề đàm phán
|
Số nước
|
1947
|
Thuế quan
|
23
|
|
1949
|
Thuế quan
|
13
|
|
1951
|
Torquay
|
Thuế quan
|
38
|
1956
|
Thuế quan
|
26
|
|
1960-1961
|
(Vòng Dillon)
|
Thuế quan
|
26
|
1964-1967
|
(Vòng Kenedy)
|
Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá
|
62
|
1973-1979
|
(Vòng Tokyo)
|
Thuế quan, các biện pháp phi quan thuế, các hiệp
định "khung"
|
102
|
1986-1994
|
(Vòng
|
Thuế quan, các biện pháp phi quan thuế, dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt, nông nghiệp, thành
lập WTO, v.v...
|
123
|
Năm vòng đàm
phán đầu tiên chủ yếu tập trung vào đàm phán giảm thuế quan. Bắt đầu từ Vòng
đàm phán Kenedy, nội dung của các vòng đàm phán mở rộng dần sang các lĩnh vực
khác. Vòng đàm phán cuối cùng - Vòng Uruguay - đã mở rộng nội dung sang
hầu hết các lĩnh vực của thương mại bao gồm: thương mại hàng hoá, thương mại
dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... và cho ra đời một tổ chức mới thay thế cho
GATT - Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Có thể nói,
trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc
đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên
tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
được thành lập vào ngày 1/1/1995 ,
GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội dung của
GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế quan
cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm
một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ
mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các
nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang
phát triển còn khoảng 15%.
2. Sự ra đời của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO)
Mặc dù đã đạt được
những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 80, đầu 90, trước những biến
chuyển của tình hình thương mại quốc tế và sự phát triển của khoa học-kỹ thuật,
GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình hình.
- Thứ nhất,
những thành công của GATT trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp
cộng với một loạt các cuộc suy thoái kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc
đẩy các nước tạo ra các loại hình bảo hộ phi quan thuế khác nhau để đối phó với
hàng nhập khẩu; hoặc ký kết các thoả thuận song phương dàn xếp thị trường giữa
các chính phủ Tây Âu và Bắc Mỹ, đồng thời nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp mới
đã xuất hiện trong thời gian này. Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất
đi những giá trị mà việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong
khi đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến
các vấn đề này.
- Thứ hai, đến
những năm 80, GATT đã không còn thích ứng với thực tiễn thương mại thế giới.
Khi GATT được thành lập năm 1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết thương mại
hàng hoá hữu hình. Từ đó tới nay, thương mại quốc tế đã phát triển nhanh chóng,
mở rộng sang cả các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận
tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư vấn... và các loại hình
thương mại dịch vụ này, cùng với các vấn đề thương mại trong đầu tư và bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở
thành một bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế.
- Thứ ba, trong
một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá, GATT còn có những lỗ hổng cần phải
được cải thiện. Ví dụ, trong nông nghiệp và hàng dệt may, các cố gắng tự do hoá
thương mại đã không đạt được thành công lớn. Kết quả là còn rất nhiều ngoại lệ
với các quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này.
- Thứ tư, về mặt
cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ ra không thích ứng
với tình hình thế giới. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia mang tính chất
tuỳ ý. Thương mại quốc tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức
thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc để đảm bảo thực thi các hiệp định,
quy định chung của thương mại quốc tế. Về hệ thống giải quyết tranh chấp,
GATT chưa có một cơ chế điều tiết thủ
tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra một
thời gian biểu nhất định, do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ
bị bế tắc. Để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, rõ ràng
hệ thống này cần phải được cải tiến.
Những yếu tố
trên, kết hợp với một số nhân tố khác đã
thuyết phục các bên tham gia GATT cần phải có nỗ lực để củng cố và mở rộng hệ
thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và các hiệp định
phụ trợ của nó đã được các nước thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với
điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947,
cùng với các quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành
GATT 1994. Một số hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như
Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994,
chúng tạo thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại
Hàng hoá. Vòng đàm phán Uruguay
cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và Quyền
Sở hữu Trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong những thành công lớn nhất
của vòng đàm phán lần này là, cuối Vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cho ra
Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bắt đầu đi vào
hoạt động từ ngày 1/1/1995.
II. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)
1.
Mục tiêu:
WTO thừa nhận
các mục tiêu của GATT, tức là quan hệ giữa các nước thành viên trong thương mại
và kinh tế sẽ được tiến hành nhằm:
¨ nâng
cao mức sống;
¨ bảo
đảm tạo đầy đủ việc làm, đảm bảo tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu cầu thực
tế;
¨ phát
triển việc sử dụng các nguồn lực của thế giới;
¨
mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá.
2.
Chức năng
Theo Hiệp định Marrakesh thành lập WTO,
tổ chức này có năm chức năng cơ bản như sau:
1. Tạo thuận lợi cho việc
thực thi, quản lý và tiến hành các mục tiêu của Hiệp định này và các Hiệp định
thương mại đa biên khác, cũng như các Hiệp định nhiều bên.
2. Tạo ra diễn đàn đàm phán
giữa các nước thành viên về quan hệ thương mại giữa các nước này về các vấn đề
được đề cập đến trong các Hiệp định WTO, và thực thi kết quả của các cuộc đàm
phán đó.
3. Giải quyết tranh chấp giữa
các nước thành viên trên cơ sở Quy định và Thủ tục Giải quyết Tranh chấp.
4. Thực hiện rà soát chính
sách thương mại thông qua Cơ chế Rà soát Chính sách Thương mại
5. Nhằm đạt được một sự nhất
quán hơn nữa trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, khi thích
hợp, WTO sẽ phối hợp với IMF, WB và các cơ quan của các tổ chức này.
3.
nguyên tắc cơ bản
WTO hoạt động
dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp, bao gồm trên 60 hiệp
định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh hầu hết các lĩnh
vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng trên
cơ sở năm nguyên tắc cơ bản của WTO.
1. Thương mại không có sự phân biệt đối xử.
Nguyên
tắc này được cụ thể hoá trong các quy định về chế độ Đãi ngộ Tối huệ quốc và
Đãi ngộ Quốc gia:
1.1. Đãi ngộ Tối huệ quốc
(MFN):
Đãi
ngộ Tối huệ quốc là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong Điều I - Hiệp
định GATT, điều II - Hiệp định GATS và điều IV - Hiệp định TRIPS. Theo nguyên
tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định
khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá
xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân
biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ
bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì
cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả
các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng
cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này
(Xem thêm Phụ lục I).
1.2.
Đãi ngộ Quốc gia (NT):
Trong
khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được phép áp dụng đối xử
phân biệt giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối
xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất
trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào,
sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa
khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất
trong nước. (Xem thêm Phụ lục II).
Nguyên
tắc MFN và NT lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, sau
khi WTO ra đời thì nó được mở rộng cả sang thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí
tuệ liên quan đến thương mại và các lĩnh vực khác, tuy vậy mức độ áp dụng của
quy tắc này trong các lĩnh vực là khác nhau.
Là những cấu thành cơ bản của nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các
thành viên Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), tuy nhiên, trong các quy định của
WTO, yêu cầu này được áp dụng ở mức độ khác nhau theo từng lĩnh vực:
-
Trong thương mại hàng hoá: MFN và NT được áp dụng tương đối toàn diện và triệt
để;
-
Trong thương mại dịch vụ: MFN và NT cũng được áp dụng với những lĩnh vực mà một
thành viên đã cam kết mở cửa thị trường, với những lĩnh vực dịch vụ còn duy trì
hạn chế thì việc dành MFN và NT tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán các cam kết cụ
thể.
-
Trong lĩnh vực đầu tư: WTO chưa có một hiệp định đầu tư đa biên, mới đạt được
Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, và quy chế MFN và
NT chỉ giới hạn ở Hiệp định này. Tuy nhiên, trong luật pháp đầu tư nước ngoài
của các nước, quy chế MFN và NT được áp dụng phổ biến và trên nhiều lĩnh vực.
-
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: các đãi ngộ quốc gia trên đã được thể chế hoá cụ
thể và phổ biến trong các công ước quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ.
2. Chỉ bảo hộ bằng thuế
quan
Trong
WTO, việc bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa không bị ngăn cấm. Tuy nhiên,
WTO đưa ra một nguyên tắc là các nước chỉ được thực hiện bảo hộ chủ yếu thông
qua thuế quan, chứ không được sử dụng các biện pháp thương mại khác. Mục tiêu
của nguyên tắc này để đảm bảo sự minh bạch của việc bảo hộ và giảm thiểu những
tác dụng bóp méo thương mại phát sinh.
3. Tạo dựng một nền tảng ổn
định cho thương mại
Một
nguyên tắc cơ bản của WTO là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn
định cho thương mại quốc tế, thông qua việc các nước ràng buộc thuế quan của
mình. Các nước chỉ có thể tăng thuế quan sau khi đã tiến hành đàm phán lại và
đã đền bù thoả đáng cho lợi ích các bên bị thiệt hại do việc tăng thuế đó.
Để
đảm bảo nguyên tắc này, các nước thành viên WTO còn có nghĩa vụ phải minh bạch
hoá các quy định thương mại của mình, phải thông báo mọi biện pháp đang áp dụng
và ràng buộc chúng (tức là cam kết sẽ không thay đổi theo chiều hướng bất lợi
cho thương mại, nếu thay đổi phải được thông báo, tham vấn và bù trừ hợp lý).
Tính dự báo được nhằm giúp các nhà kinh doanh nắm rõ tình hình hiện tại cũng
như xác định được cơ hội của họ trong tương lai. Nguyên tắc này giúp cho môi
trường kinh doanh có tính ổn định và lành mạnh.
4. Thương mại ngày càng tự
do hơn thông qua đàm phán
WTO
đảm bảo thương mại giữa các quốc gia ngày càng tự do hơn thông qua quá trình
đàm phán hạ thấp các hàng rào thương mại để thúc đẩy buôn bán. Kể từ năm 1948
đến nay, GATT, mà nay là WTO, đã tiến hành 8 vòng đàm phán để giảm thuế quan,
dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc
thương mại ngày càng tự do này, WTO đảm nhận chức năng là diễn đàn đàm phán
thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá
thương mại.
Trước
Hội nghị Bộ trưởng WTO ngày 30/11-3/12 tại Seattle , các nước thành viên WTO đã kỳ vọng
sẽ có thể đưa ra một vòng đàm phán mới có tên là Vòng đàm phán Thiên niên kỷ
nhằm mục tiêu tự do hoá thương mại một cách toàn diện và sâu rộng hơn nữa. Song
do bất đồng quan điểm giữa các quốc gia thành viên nên Hội nghị này đã không
thể đưa ra một Tuyên bố chung về các nội dung và lịch trình đàm phán cụ thể.
Trong thời gian gần đây, các nước đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy tiến trình tự
do hoá thương mại đa phương hơn nữa, và trong tháng 2/2000 vừa qua, WTO đã nhất
trí tiến hành đàm phán tự do hoá thương mại dịch vụ và nông sản bắt đầu từ
tháng 2 và tháng 3/2000.
5. Tạo ra môi trường cạnh
tranh ngày càng bình đẳng
WTO
là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và
không bị bóp méo. Tất cả các Hiệp định của WTO như về nông nghiệp, dịch vụ,
quyền sở hữu trí tuệ... đều nhằm mục tiêu tạo một môi trường cạnh tranh ngày
càng bình đẳng hơn giữa các quốc gia.
6. Hạn chế số lượng hàng
nhập khẩu
Theo
quy định của WTO, các nước sẽ loại bỏ tất cả hạn chế số lượng đối với hàng nhập
khẩu. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép các
nước thành viên được áp dụng các hạn chế nhập khẩu trong một số trường hợp
ngoại lệ như:
-
Nước nhập khẩu gặp khó khăn về cán cân thanh toán
-
Có căng thẳng về ngoại hối (do nhu cầu nhập khẩu vì mục tiêu phát triển tăng
mạnh, hoặc do các nước này thiết lập hay mở rộng hoạt động sản xuất trong
nước).
Khi
các nước áp dụng các ngoại lệ này, các hạn chế số lượng phải được áp dụng trên
cơ sở không có sự phân biệt đối xử.
7. Nguyên tắc "khước
từ" và khả năng áp dụng các hành động khẩn cấp
Khi
tình hình kinh tế hay thương mại của một nước gặp khó khăn nhất thời, WTO cho
phép các nước thành viên được tạm thời miễn không thực hiện những nghĩa vụ nhất
định.
WTO
cũng cho phép các chính phủ được áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp trong
những trường hợp quy định. Các thành viên có thể áp dụng các hạn chế nhập khẩu
hay tạm ngừng các nhân nhượng thuế quan đối với những sản phẩm cụ thể khi nhập
khẩu các sản phẩm này tăng mạnh, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm
trọng cho các nhà sản xuất trong nước.
8. Các thoả thuận thương
mại khu vực
WTO
thừa nhận các thoả thuận thương mại khu vực nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá
thương mại. Các liên kết như vậy được chấp nhận là một ngoại lệ của nguyên tắc
Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo các
thoả thuận này tạo thuận lợi cho thương mại giữa các nước liên quan song không
làm tăng các hàng rào cản trở thương mại với các nước ngoài liên kết.
9. Điều kiện đặc biệt dành
cho các nước đang phát triển
Với
2/3 số thành viên của mình là các nước đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi, một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát
triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các quốc gia này,
với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa
phương. Thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các
nền kinh tế chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực thi
các hiệp định, đồng thời chú ý đến trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
4. Cơ cấu tổ chức của WTO
Hiện
nay, WTO có 137 nước thành viên, đồng thời có 30 nước đang trong quá trình đàm
phán gia nhập (Gần đây nhất, cuối tháng 12/1999, Đại Hội đồng WTO đã chấp thuận
Gióoc-đa-ni là thành viên thứ 137 của WTO).
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO
là Hội nghị Bộ trưởng (MC). Hội nghị Bộ
trưởng họp ít nhất hai năm một lần. Hội nghị Bộ trưởng WTO lần I được tổ chức
tại Singapore tháng 12/1996,
lần II tại Geneva tháng 5/1998 và Hội nghị Bộ
trưởng lần III diễn ra tại Seattle ,
Mỹ từ ngày 30/11 đến ngày 3/12/1999 .
Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan đưa ra quyết định đối với mọi vấn đề của bất kỳ
hiệp định cụ thể nào. Thông thường, Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các đường lối,
chính sách chung để các cơ quan cấp dưới tiến hành triển khai.
Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại Hội
đồng (GC). Cơ quan này tiến hành các công việc hàng ngày của WTO trong thời
gian giữa các Hội nghị Bộ trưởng, thông qua ba cơ quan chức năng là:
w
Đại Hội đồng (GC)
w
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB)
w
Cơ quan Rà soát Chính sách Thương mại (TPRB)
Đại Hội đồng giải quyết các vấn đề
của WTO thay mặt cho Hội nghị Bộ trưởng và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng.
Đại Hội đồng cũng đồng thời đóng vai
trò là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát chính sách
(TPRB). Cơ quan Giải quyết Tranh chấp được phân ra làm Ban Hội thẩm (Panel) và
Uỷ ban Kháng nghị (Appellate). Các tranh chấp trước hết sẽ được đưa ra Ban Hội
thẩm để giải quyết. Nếu như các nước không hài lòng và đưa ra kháng nghị thì Uỷ
ban Kháng nghị sẽ có trách nhiệm xem xét vấn đề. (Xem Phụ lục kèm theo).
Dưới Đại Hội đồng, WTO có ba Hội
đồng về ba lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng
Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại. Các hội đồng này có các cơ quan cấp dưới (các uỷ ban và các tiểu ban) để
thực thi các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực. (Ví dụ, Hội đồng Thương mại
Hàng hoá có 11 uỷ ban, 2 nhóm công tác và Cơ quan Giám sát Hàng dệt, Hội đồng
Thương mại Dịch vụ có 2 uỷ ban, 2 nhóm công tác...).
Tương đương với các Hội đồng này,
WTO còn có một số uỷ ban, có phạm vi chức năng nhỏ hơn, nhưng cũng báo cáo trực
tiếp lên Đại Hội đồng, đó là các Uỷ ban về Thương mại và Phát triển, Thương mại
và Môi trường, Hiệp định Thương mại Khu vực, Hạn chế bảo vệ Cán cân Thanh toán,
Uỷ ban về Ngân sách, Tài chính và Quản lý, và Tiểu ban về các nước Chậm phát
triển. Bên cạnh các uỷ ban đó là các Nhóm công tác về Gia nhập, và Nhóm Công
tác về Mối quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại, về Tác động qua lại giữa Thương
mại và Chính sách cạnh tranh, về Minh bạch hoá Mua sắm của Chính phủ. Ngoài ra
còn có hai uỷ ban về các hiệp định nhiều bên.
Một cơ quan quan trọng của WTO là
Ban Thư ký WTO, được đặt tại Geneva .
Đứng đầu Ban Thư ký là Tổng Thư ký (hiện nay là ông Mike Moore - người New
Zealand), dưới đó là 4 Phó Tổng Thư ký, phụ trách từng mảng cụ thể. Ban Thư ký
có khoảng 500 nhân viên. Nhiệm vụ chính của Ban Thư ký là:
w Hỗ
trợ về kỹ thuật và quản lý cho các cơ quan chức năng của WTO (các hội đồng, uỷ
ban, tiểu ban, nhóm đàm phán) trong việc đàm phán và thực thi các hiệp định;
w Trợ
giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát
triển;
w Phân
tích các chính sách thương mại và tình hình thương mại;
w Giúp
đỡ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến việc diễn giải các
quy định, luật lệ của WTO;
w Xem
xét vấn đề gia nhập của các nước và tư vấn cho họ.
III. Các quy định của WTO
Có thể nói, WTO
là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc về thương mại giữa các quốc
gia. Cốt lõi của WTO là các hiệp định do các chính phủ thành viên đàm phán và
ký kết. Các hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý cho việc tiến hành hoạt động
thương mại quốc tế, với mục tiêu thúc đẩy giao lưu thương mại hàng hoá, dịch vụ
và hợp tác thương mại ngày càng sâu rộng và hiệu quả hơn. Hệ thống WTO hiện nay
bao gòm những hiệp định độc lập như:
- Các hiệp định
đa phương về thương mại hàng hoá bao gồm Hiệp định GATT 1994 và các hiệp định
đi kèm với nó;
- Hiệp định
chung về Thương mại Dịch vụ (GATS);
-
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS)
1. Thương mại Hàng hoá
Hiệp định chủ
chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá của WTO là GATT 1994.
Nội dung cơ bản của GATT:
GATT
đưa ra các nguyên tắc cơ bản để tiến hành thương mại hàng hoá giữa các nước
thành viên, đó là nguyên tắc MFN, NT, không hạn chế số lượng, các hiệp định
thương mại khu vực, các điều khoản ưu tiên và ưu đãi dành cho các nước đang và
chậm phát triển, các quy tắc về đàm phán, ràng buộc thuế quan và đàm phán
lại... GATT cũng có các điều khoản cơ bản về các vấn đề chống bán phá giá, xác
định trị giá hải quan, trợ cấp, tự vệ khẩn cấp... tuy nhiên những điều khoản
này chưa đầy đủ và chi tiết, sau này chúng đã được cụ thể hoá thành các hiệp
định riêng biệt.
Mục
tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành giảm thuế quan không ngừng và
ràng buộc chúng. Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay , các nước thành viên đã đưa
ra các cam kết ràng buộc thuế đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp nhập
khẩu.
Sau
Vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan
hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ
1/1/1995. Giá trị hàng hoá nhập khẩu vào các nước này được miễn thuế hoàn toàn
lên tới 44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao
giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất cả các nước phải chịu thuế suất trên
15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối với các nước đang phát triển thì mức
giảm này là từ 9% xuống 5%). Ngày 26/3/1997, 40 nước chiếm 92% thương mại thế
giới trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã nhất trí miễn thuế và các loại phí
khác cho tất cả các sản phẩm công nghệ thông tin nhập khẩu kể từ năm 2000. Số
lượng các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết
ràng buộc 99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển ràng buộc
73% (từ 21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%).
Như
vậy, nội dung chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan hàng công nghiệp.
Ngoài các danh mục ràng buộc thuế quan của các nước thành viên, GATT tạo cơ sở
để tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán giảm thuế hơn nữa trong tương lai. GATT
còn bao gồm cả các cam kết mở cửa thị trường của các quốc gia. Các cam kết này
là một phần không thể tách rời của Hiệp định GATT. Bên cạnh đó, GATT cũng quy
định những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi một nước muốn rút bỏ
một ràng buộc thuế quan của mình, trong những trường hợp đặc biệt, cụ thể. GATT
cũng có các quy định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự
vệ khẩn cấp, trợ cấp, bảo vệ cán cân thanh toán, gia nhập, rút lui, miễn trừ...
Tuy vậy, trong khuôn khổ của GATT thì các vấn đề này chưa được đề cập chi tiết,
cụ thể, theo kịp tình hình thương mại quốc tế. Vì vậy, sau Vòng đàm phán Uruguay ,
các nước thành viên đã nhất trí đưa ra các hiệp định cụ thể về các vấn đề này,
bao gồm:
- Hiệp định Nông nghiệp (AoA)
- Hiệp định về các Biện pháp Vệ
sinh Dịch tễ (SPS)
- Hiệp định Dệt may (ATC)
- Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật
Cản trở Thương mại (TBT)
- Hiệp định về các Biện pháp Đầu
tư liên quan đến Thương mại (TRIMs) (Phụ lục V)
- Hiệp định Chống Phá giá
(Anti-dumping)
- Hiệp định Trị giá Hải quan
(ACV)
- Hiệp định về Giám định Hàng hoá
trước khi xuống tầu (PSI)
- Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ
(Rules of Origin)
- Hiệp định về Giấy phép Nhập
khẩu (Import Licensing)
- Hiệp định về Trợ cấp và các
Biện pháp Đối kháng (SCM)
- Hiệp định về các Biện pháp Tự
vệ (AoS)
Lĩnh vực nông nghiệp trong
WTO:
Hiệp
định GATT điều chỉnh thương mại hàng công nghiệp giữa các quốc gia. Riêng hàng
nông sản, do tính chất đặc biệt nhạy cảm của mình, từ trước đến nay vẫn được
hưởng nhiều ngoại lệ. Mặc dù chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới và
không quá 5% GDP của rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, nhưng
thương mại nông sản luôn là đối tượng đàm phán rất nhạy cảm trong đàm phán
thương mại quốc tế.
Thương
mại nông sản là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính sách thương mại của
các nước thành viên. Trong thời kỳ GATT, thương mại nông nghiệp hầu như vẫn
chịu những quy chế riêng và chưa được đưa vào khuôn khổ của hệ thống đa biên.
Nói như vậy vì hàng nông sản chịu thuế quan cao nhất, là đối tượng của chính
sách bảo đảm an ninh lương thực và nông nghiệp được các nước phát triển áp dụng
mức trợ cấp nông nghiệp cao. Nông nghiệp thường là lĩnh vực tranh chấp và thách
thức giữa các nước thành viên.
Nhằm
tạo ra một khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và tăng cường trao
đổi mặt hàng này, cuối vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cùng nhau ký Hiệp
định Nông nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp đã đạt được những thoả thuận về mở
cửa thị trường nông sản, thuế hoá các biện pháp phi thuế và giảm trợ cấp cũng
như mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên.
+ Giảm trợ cấp xuất khẩu nông sản:
Các
nước công nghiệp sẽ cắt giảm 36% nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu
nông phẩm trong vòng 6 năm tính từ 1995; khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp
giảm 21% cũng trong thời gian trên. Trong giai đoạn thực thi 6 năm đó, các nước
phát triển được phép sử dụng trợ cấp để giảm giá tiếp thị và vận chuyển hàng
hoá xuất khẩu trong những trường hợp nhất định.
Các nước đang
phát triển sẽ cắt giảm 24% nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông
phẩm, khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp sẽ được giảm 14% trong vòng 10 năm
tính từ năm 1995.
Tỷ
lệ trên được tính trên mức trung bình hàng năm của thời kỳ cơ sở 1986-90 và bắt
đầu từ năm 1995. Các nước không được phép áp dụng thêm bất kỳ biện pháp trợ cấp
xuất khẩu nào trước đây chưa tồn tại.
Các
nước chậm phát triển không phải đưa ra các cam kết cắt giảm.
Các
cam kết cắt giảm đó được coi là sẽ làm cho giá nông sản trên thế giới tăng lên.
·+ Mở cửa thị trường nông sản:
·
·- Thuế
hoá các hàng rào phi thuế với nông sản. Mức thuế hoá dựa trên việc tính
toán tác động bảo hộ của biện pháp phi thuế đó nhằm đưa ra mức thuế quan có tác
động bảo hộ tương đương.
·
·- Các nước phát triển cam kết sẽ giảm thuế
trung bình 36%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 15% và thực
hiện trong 6 năm (1995-2000).
·
·- Các nước đang phát triển cam kết sẽ giảm thuế
trung bình 24%, mức giảm tối thiểu với mỗi dòng thuế không ít hơn 10% và thực
hiện trong 10 năm (1995-2004).
·
·Một
vài nước có vấn đề an ninh lương thực đặc biệt nhạy cảm như Nhật, Hàn Quốc,
Philippines và Israel được áp dụng ngoại lệ đặc biệt khi thuế hoá các biện pháp
phi thuế và ngược lại họ có nghĩa vụ đẩy nhanh mức độ mở cửa thị trường cho
hàng nhập khẩu. Ví dụ, mức mở cửa thị trường với Nhật được bắt đầu là 4% và có
thể lên 8% vào năm 2000.
·
·- Các nước cũng cam kết giữ mức mở cửa thị
trường tối thiểu không thấp hơn mức trung bình của thời kỳ 1986-90 và không đưa
ra thêm hàng rào phi thuế.
+ Trợ cấp trong
nước với nông dân: Mức hỗ trợ tổng gộp trong nước (AMS) sẽ được cắt giảm ít
nhất 20% (và với các nước đang phát triển là 13,3%) trong thời kỳ thực thi nói
trên (6 và 10 năm), tính theo mức trung bình thời kỳ 1986-88.
+ Các biện pháp vệ sinh dịch tễ: các nước
được phép tự mình đặt ra tiêu chuẩn vệ sinh nhưng chúng phải dựa trên cơ sở
khoa học (khuyến khích sử dụng những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi trên
thế giới).
Tuy
vậy, đến nay, các nước đang phát triển cho rằng trên thực tế, quyền lợi của họ
không được đảm bảo vì Hiệp định Nông nghiệp còn nhiều bất bình đẳng và nhiều
nước đã không tuân thủ đầy đủ Hiệp định Nông nghiệp. Cụ thể là thị phần nông
sản của các nước này không hề tăng so với trước Vòng đàm phán Uruguay (40% tổng sản phẩm nông
nghiệp xuất khẩu thế giới, 43% tổng sản lượng sản phẩm nhập khẩu nông sản của
các nước phát triển). Hỗ trợ nông nghiệp của các nước OECD vẫn còn rất cao, năm
1997 là 280 tỷ USD, năm 1998 là 307 tỷ USD, trong đó, EU chiếm tới 142 tỷ, Hoa
Kỳ 100 tỷ và Nhật Bản 60 tỷ, năm 1998 là 362 tỷ USD (tăng khoảng 8% so với năm
1997).
Bảng: Mục tiêu cắt giảm trợ cấp - bảo hộ trong
thương mại hàng nông sản
Các nước phát triển
(6 năm: 1995 - 2000)
|
Các nước đang phát triển
(10 năm, 1995 - 2004)
|
|
Thuế
quan cắt giảm trung bình
-
cho tất cả sản phẩm nông nghiệp
-
tối thiểu cho từng sản phẩm
|
- 36%
- 15%
|
- 24%
- 10%
|
Trợ
cấp trong nước
Tổng
mức cắt giảm AMS (Giai đoạn cơ sở: 86-88)
|
-20%
|
-13%
|
Xuất
khẩu
-
Giá trị trợ cấp
-
Khối lượng được trợ cấp (Giai đoạn cơ sở: 86-90)
|
-36%
-21%
|
-24%
-14%
|
Mức
cơ sở cho cắt giảm thuế là mức ràng buộc trước ngày 1/1/1995, hoặc đối với những
mặt hàng chưa được ràng buộc thì áp dụng mức thực tế vào tháng 9/1986 khi
Vòng đàm phán
|
Theo như thoả
thuận, nông nghiệp sẽ là một trong những chủ đề chính được thảo luận tại vòng
đàm phán Thiên niên kỷ, dự kiến bắt đầu vào năm 2000. Tuy nhiên, do quyền lợi
quốc gia của mình, các nước thành viên muốn đề cập đến vấn đề này ở những góc
độ khác nhau. Các nước đang phát triển muốn thảo luận về việc mở cửa thị trường
hơn nữa, giảm trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước cho nông nghiệp. Hoa Kỳ
cũng cần mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản của mình nên muốn tập trung
vào việc cắt giảm hỗ trợ của EU đối với nông nghiệp, và đặc biệt chú ý đến vấn
đề xây dựng cơ sở pháp lý cho việc xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp là kết quả
của công nghệ tiên tiến. Trong khi đó, EU và Nhật Bản cùng một số nước khác lại
vẫn muốn giữ quyền trợ cấp, không muốn nhập khẩu sản phẩm công nghệ sinh học
với lý do bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Do vậy, chắc chắn các nước sẽ còn
phải thảo luận rất nhiều về vấn đề nông nghiệp trong vòng đàm phán tới.
Hàng dệt và may
Giống
như nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề hóc búa trong WTO. Trước Vòng đàm
phán Uruguay ,
thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi Hiệp định Đa sợi (MFA). Hiệp định
này cho phép các nước được ký kết các hiệp định song phương hoặc tiến hành các
hành động đơn phương để đặt ra hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may. Hệ thống này
rất bất lợi cho các nước đang phát triển, vốn rất có tiềm năng về mặt hàng này.
Tại Vòng đàm
phán Uruguay ,
Hiệp định về hàng Dệt - May (ATC) đã được ký kết:
Hiệp định cũng
quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản phẩm dệt và may vào hệ thống
thương mại đa biên. Chương trình được triển khai trong vòng 10 năm (1995-2005),
chia làm 4 giai đoạn. Tỷ lệ tối thiểu các sản phẩm được nhất thể hoá của từng
giai đoạn sẽ là 16, 17 và 18% và trước ngày 1 tháng 1 năm 2005, toàn bộ sản
phẩm hàng dệt và may sẽ hoàn toàn được hoà nhập vào hệ thống chính sách thương
mại đa phương của WTO.
Việc thực thi
Hiệp định Dệt - May được thực hiện thành hai tuyến:
· -
Đưa những sản phẩm vào chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại đa biên
và một khi những sản phẩm đó được nhất thể hoá (integrated) thì không được áp
dụng hạn chế số lượng nữa.
·
· -
Nới lỏng các hạn chế số lượng với các sản phẩm còn lại, từ hạn mức cơ sở
được xác định (với mức tối thiểu quy định) và áp dụng cơ chế linh hoạt cho nước
xuất khẩu sử dụng hạn chế đó. Nước áp dụng hạn ngạch cần thông báo rõ các tiêu
thức trên. Trong thời gian chuyển tiếp, dần dần tự do hoá thương mại đưa những
mặt hàng trước đây thuộc diện áp dụng hạn ngạch.
Hiệp định cũng
cho phép trong thời kỳ chuyển tiếp được áp dụng những biện pháp tự vệ. Chỉ
những thành viên đã tiến hành những chương trình “nhất thể hoá” được áp dụng
những biện pháp này. Việc áp dụng chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở đã thực
hiện hai bước liên tiếp: (1) chứng minh được có sự tổn hại hay đe doạ gây tổn
hại do nhập khẩu tăng lên đột ngột và (2) có mối liên hệ trực tiếp giữa sự tổn
hại đó với sự tăng vọt số lượng nhập khẩu đó.
Mặc dù có những
kết quả tích cực như vậy, nhưng cho đến nay, sau 4 năm Hiệp định ATC có hiệu
lực, các nước đang phát triển vẫn cho rằng quyền lợi của các nước này không
được đảm bảo do việc thực thi hiệp định này vẫn còn nhiều điểm cần phải xem
xét. Các nước này yêu cầu các nước phát triển tích cực thực thi ATC hơn nữa.
Bảng: Thực thi
Hiệp định Dệt - May
Giai đoạn
|
% sản phẩm được đưa vào GATT (bao gồm cả việc dỡ bỏ
hạn ngạch)
|
Tốc độ nới lỏng hạn ngạch hiện nay
(nếu mức năm 1994 là 6%)
|
Giai đoạn I:
|
16%
|
6,69%/năm
|
Giai đoạn II:
|
17%
|
8,7%/năm
|
Giai đoạn III:
|
18%
|
11,05%/năm
|
Giai đoạn IV:
từ
Nhất thể hoá hoàn toàn vào GATT (và xoá bỏ mọi hạn
ngạch). Hiệp định ATC chấm dứt.
|
49%
(tối đa)
|
Không còn hạn ngạch
|
áp
dụng mức nhập khẩu năm 1990 làm cơ sở.
|
Cơ quan Giám sát Hàng dệt được
WTO thiết lập để đảm bảo việc thực thi Hiệp định ATC một cách nghiêm túc.
Hiệp định về biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
Trước
đây, khi bắt đầu Vòng đàm phán Uruguay, các bên có tham vọng đi dến một hiệp
định đầu tư đa phương tương đối toàn diện, đề cập đến cả các vấn đề chính sách
có tác động tới lưu chuyển đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn đề áp dụng các
nguyên tắc của GATT là Đãi ngộ quốc gia (cho các công ty nước ngoài được hưởng
các quyền lợi tương tự như các công ty trong nước về đầu tư, thành lập và hoạt
động trong nội địa) và nguyên tắc Tối
huệ quốc (không cho phép các nước phân biệt đối xử giữa các nguồn đầu tư khác
nhau) trong đầu tư. Tuy nhiên, những đề xuất, mặc dù được các nước phát triển
rất ủng hộ, đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía các nước đang phát triển,
với lý do là khuôn khổ GATT không cho phép đàm phán các vấn đề đầu tư và nếu
tiến hành đàm phán thì phải đưa cả vấn đề buôn bán giữa các công ty xuyên quốc
gia như giá chuyển nhượng, các biện pháp hạn chế kinh doanh và các hành vi khác
vào phạm vi đàm phán. Kết quả là trong vòng đàm phán này, các nước chỉ đề cập
đến đầu tư trong một phạm vi hẹp - các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại (TRIMs).
Trong
số rất nhiều các biện pháp đầu tư có tác động bóp méo thương mại, Hiệp định
TRIMs không cho phép các nước thành viên áp dụng 5 biện pháp được coi là vi
phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia và không hạn chế số lượng sau đây:
Các TRIMS không phù hợp với nguyên
tắc đãi ngộ quốc gia, tức là gây ra sự phân biệt đối xử giữa hàng trong nước và
hàng nhập khẩu:
- yêu cầu các doanh nghiệp phải mua
hoặc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp
trong nước, hoặc
- yêu cầu doanh nghiệp chỉ được mua
hoặc sử dụng các sản phẩm nhập khẩu được giới hạn trong một tổng số tính theo
số lượng hoặc giá trị sản phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu.
Các TRIMS không phù hợp với điều XI
- Hiệp định GATT về nghĩa vụ loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng đối với
xuất, nhập khẩu:
- hạn chế việc doanh nghiệp nhập
khẩu dưới hình thức hạn chế chung hoặc hạn chế trong một tổng số liên quan đến
số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước mà doanh nghiệp đó xuất khẩu;
- hạn chế việc doanh nghiệp nhập
khẩu bằng cách hạn chế khả năng tiếp cận đến nguồn ngoại hối liên quan đến
nguồn thu ngoại hối của doanh nghiệp này;
- hạn chế việc doanh nghiệp xuất
khẩu hoặc bán để xuất khẩu các sản phẩm cho dù được quy định dưới hình thức sản
phẩm cụ thể hay dưới hình thức số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước của
doanh nghiệp.
Các
nước được hưởng một khoảng thời gian chuyển tiếp để loại bỏ dần dần các biện pháp nêu trên. Thời gian chuyển tiếp với
các nước phát triển là 2 năm, với các nước đang phát triển là 5 năm và các nước
chậm phát triển là 7 năm, tính từ ngày 1/1/1995.
(Xem thêm Phụ lục 3)
2.
Thương mại dịch vụ
Ngày nay, hoạt
động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO được điều chỉnh bởi Hiệp
định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS).
GATS bao gồm:
- Các quy định và nguyên tắc chung
được trình bày trong Hiệp định chung
- Các phụ lục của GATS và các quyết
định cấp Bộ trưởng
Phụ lục về Miễn
trừ MFN
Phụ lục về Di
chuyển của tự nhiên nhân của dịch vụ
Phụ lục về Dịch
vụ Vận tải hàng không
Phụ lục về Dịch
vụ tài chính
Phụ lục về Vận
tải biển
Phụ lục về Viễn
thông cơ bản
- Các cam kết của từng nước về các
lĩnh vực dịch vụ cụ thể, về áp dụng MFN, NT và mở cửa thị trường trong các lĩnh
vực đó.
Nội dung cơ bản của Hiệp
định GATS
Hiệp
định GATS bao gồm 29 điều khoản, quy định các quy tắc và nghĩa vụ cơ bản.
Các
lĩnh vực dịch vụ được điều chỉnh bởi GATS bao gồm một diện rộng với 11 ngành và
155 tiểu ngành, được phân định thống nhất theo danh mục CPC (Danh mục phân loại
sản phẩm theo tiêu chuẩn Liên hợp quốc).
GATS
đề cập đến lĩnh vực rộng lớn này qua bốn phương thức cung cấp dịch vụ:
- Cung cấp dịch vụ qua biên
giới: Dịch vụ được cung cấp thông qua sự vận động của bản thân dịch vụ đó xuyên
biên giới, tức là được cung cấp từ lãnh thổ nước này sang lãnh thổ nước khác
(chỉ có dịch vụ di chuyển, không có sự di chuyển của người cung cấp dịch vụ) -
ví dụ truyền hình tại chỗ một hoạt động văn hoá thể thao.
-
Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài - ví dụ đi du lịch và tiêu thụ dịch vụ ở nước
ngoài. Dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của một nước thành viên cho người
tiêu dùng dịch vụ của nước khác.
-
Hiện diện thương mại - tức là cung cấp dịch vụ qua việc thiết lập cơ sở thường
trú hoặc công ty tại lãnh thổ một nước
thành viên khác.
-
Hiện diện của tự nhiên nhân - tức là việc cung cấp dịch vụ được thực hiện bởi
người cung cấp dịch vụ hoặc người làm công của nhà cung cấp dịch vụ (các kỹ
thuật viên, nhân viên cung cấp dịch vụ) tại lãnh thổ của một nước khác.
Trong
bốn phương thức cung cấp dịch vụ kể trên, hiện diện thương mại được coi là
phương thức được các thành viên quan tâm nhất và cũng có nhiều cam kết chi tiết
nhất.
Nhìn chung, Hiệp
định Thương mại Dịch vụ mới đạt được kết quả có mức độ về mở cửa thị trường;
thành công nhất của GATS là đã mở rộng được diện điều chỉnh của hệ thống thương
mại đa biên, đặc biệt là bao trùm cả những lĩnh vực như đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, trình độ chuyên môn, sự di chuyển của tự nhiên nhân và cung cấp dữ
liệu qua biên giới. Những tiền đề đó đã hợp pháp hoá khuôn khổ pháp lý ban đầu
chung cho các nước và là xuất phát điểm để các quốc gia tiếp tục đàm phán cụ
thể hơn về những lĩnh vực đầy tiềm năng này qua các vòng đàm phán trong tương
lai.
Về Đãi ngộ
Tối huệ quốc (MFN) trong thương mại dịch vụ, đây là nghĩa vụ bắt buộc của
các nước thành viên. Các nước cam kết dành cho nhau những "ưu đãi"
như nhau đối với mọi lĩnh vực dịch vụ. Tuy vậy, Hiệp định GATS cho phép mỗi
thành viên đưa ra những ngoại lệ của MFN. Ví dụ, Việt Nam có thể đưa một cam kết về ưu
đãi song biên trong hợp tác du lịch ký với Thái Lan vào danh mục và ưu đãi đó
không được mở rộng cho các thành viên WTO.
Về
Đãi ngộ quốc gia(NT), sự áp dụng còn tuỳ thuộc vào điều kiện đạt được
trong đàm phán. NT không được áp dụng một cách tự động. Trên cơ sở kết quả các
cuộc đàm phán tự do hoá dịch vụ và các cam kết của các nước thành viên đến nay,
việc áp dụng NT trong thương mại dịch vụ còn rất chừng mực.
Về
Cam kết mở cửa thị trường cụ thể của mỗi thành viên trong từng ngành,
tiểu ngành dịch vụ: được tổng hợp trong một Danh mục các Cam
kết. Danh mục này tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán trên cơ sở trao đổi.
Sau
Vòng đàm phán Uruguay, nhiều cuộc đàm phán về thương mại dịch vụ đã được tiến
hành và đi đến ký kết một số hiệp định về thông tin viễn thông cơ bản, công
nghệ thông tin, dịch vụ tài chính v.v... Tính đến nay, đàm phán về dịch vụ viễn
thông cơ bản đã kết thúc vào tháng 2 năm 1997 và đàm phán về dịch vụ tài chính
đã kết thúc vào trung tuần tháng 12 năm 1997. Trong các cuộc đàm phán này, các
thành viên đã đạt được phạm vi cam kết rộng hơn. Các hiệp định này được coi là
những bước tiến lớn trong quá trình tự do hoá thương mại dịch vụ kể từ khi WTO
được thành lập. Các nước cũng đã hoàn tất việc đưa các cam kết này vào Bảng cam
kết theo quy định của điều XXI-GATS. (Xem thêm Phụ lục IV).
Chắc
chắn thương mại dịch vụ sẽ đạt tốc độ tăng trưởng vượt xa thương mại hàng hoá
trong một vài thập kỷ tới. Đàm phán thương mại dịch vụ sẽ có tầm quan trọng lớn
hơn trên diễn đàn WTO, diễn đàn khu vực và liên khu vực. Các nước thành viên
cũng đã nhất trí về một Chương trình Nghị sự để tiếp tục đàm phán mở rộng tự do
hoá thương mại dịch vụ vào Thiên niên kỷ mới; trong số những chủ đề đã được dự
kiến có các biện pháp tự vệ tình huống, mua sắm của chính phủ, trợ cấp, quy chế
nội địa về trình độ chuyên môn, v.v...
Nội
dung đàm phán thương mại dịch vụ đã được các nước nhất trí đưa ra thảo luận tại
Vòng đàm phán mới, với các mục tiêu như sau:
-
Tiếp tục mở rộng minh bạch hoá trong lĩnh vực dịch vụ;
-
Tự do hoá hơn nữa;
-
Tăng cường lợi ích của các nước trên nguyên tác cùng có lợi;
-
Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển vào thương mại dịch vụ và
xuất khẩu dịch vụ.
Phạm vi đàm phán trong vòng
tới sẽ là:
-
Giảm miễn trừ MFN;
-
Các quy định nội địa mang tính chất quốc gia của các nước;
-
Các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp;
-
Mua sắm của chính phủ...;
-
Các trợ cấp ảnh hưởng đến thương mại.
Về các quy tắc, luật lệ,
các nước sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
-
Tuân thủ quy tắc đẩy nhanh tự do hoá như đã nếu trong GATS;
-
Công nhận và tiếp tục thức đẩy quá trình tự do hoá đạt được từ các cuộc đàm
phán trước đây;
-
Đàm phán trên cơ sở song phương, đa phương và nhiều bên;
-
Cơ sở đàm phán dựa trên những cam kết của các nước thành viên đưa ra vào lúc
kết thúc Vòng Uruguay ;
-
Tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển.
Về khung thời gian cho đàm
phán, nhìn chung nhiều nước ủng hộ việc:
-
Thông qua các kết quả đàm phán của các lĩnh vực dịch vụ cùng lức và trên cơ sở
chấp nhận toàn bộ, trừ những trường hợp đàm phán về các biện pháp tự vệ khẩn
cấp;
-
Công việc của nhóm thực hiện đàm phán cần hoàn thành trước cuối năm 2000;
-
Cần tiến hành xem xét lại quá trình đàm phán 2 năm sau khi bắt đầu;
-
Thời hạn đưa ra yêu cầu ban đầu và bản chào các cam kết cụ thể là nửa đầu năm
2000;
-
Thời gian cho vòng đàm phán tới là 3 năm.
Các
nước đang phát triển còn nêu ý kiến đề xuất mong muốn các nước phát triển dành
những đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường cho
các nước này, trợ giúp kỹ thuật trong dịch vụ, hỗ trợ năng lực dịch vụ trong
nước và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường đối với các kênh phân phối và
mạng lưới thông tin các nước.
Sau
khi Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Seattle
đã không đưa ra được một vòng đàm phán toàn diện như mong đợi, các nước thành
viên WTO đã nhất trí tiến hành đàm phán tự do hoá thương mại dịch vụ vào cuối tháng
2/2000.
(Xem
thêm Phụ lục 4)
3.
Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
Nhiều người đã không dự kiến được rằng trong vòng đàm
phán Uruguay, các nước thành viên GATT lại đạt được những kết quả về quyền sở
hữu trí tuệ liên quan tới thương mại sâu và rộng đến như vậy. Các hiệp định chủ
yếu trước đây thuộc diện quản lý của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã
được chấp nhận chính thức và ràng buộc trong khuôn khổ WTO, được thực hiện trên
cơ sở đãi ngộ quốc gia. Các nước tham gia Vòng đàm phán Uruguay đã ký kết Hiệp
định về các Khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS) điều chỉnh quyền tác giả
và các quyền có liên quan, nhãn hàng, chỉ dẫn địa lý, thiết kế công nghiệp,
sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bí mật và hạn chế các
hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng. (Xem
thêm Phụ lục 5). Các bên cũng chấp nhận Cơ chế Giải quyết Tranh chấp của WTO
được áp dụng cho tranh chấp phát sinh từ các hiệp định này. TRIPS không chỉ dựa
trên những hiệp định chủ yếu của hệ thống sở hữu trí tuệ hiện có mà còn xây
dựng được những quy định mới chưa được WIPO chế định hoá.
Hiệp định có
những ngoại lệ về chuyển giao công nghệ cho các nước chậm phát triển. Đãi ngộ
khác biệt chủ yếu dành cho các nước đang phát triển là được hưởng thời gian
chuyển đổi để thực thi hiệp định (5 năm) và với các nước chậm phát triển là 10
năm.
TRIPS
cũng có một số điều khoản có quy định liên quan tới sức khoẻ và dinh dưỡng cộng
đồng cho phép thi hành chế độ li-xăng bắt buộc nhằm những mục tiêu cụ thể hoặc
tránh lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ trong việc chuyển giao công nghệ.
Khi
Hiệp định TRIPS được thực thi, những người sử dụng và khai thác quyền sở hữu
trí tuệ sẽ phải trả một khoản tiền cho chủ sở hữu, do vậy có thể giá thành hàng
hoá hay sản phẩm liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ cũng như chi phí thuê, thù
lao các quyền này kể cả nhập khẩu và trong nước sẽ cao hơn. Trước mắt, Hiệp
định sẽ làm cho các hoạt động sử dụng các quyền này tốn kém hơn. Về lâu dài và
trong một chừng mực nhất định, quyền sở hữu trí tuệ được trả công cao sẽ khuyến
khích sự sáng tạo ngay tại các nước đang phát triển và góp phần phát triển công
nghệ tại chỗ. Nhưng phát triển công nghệ là một nội dung đầy tính phức tạp và
đòi hỏi nhiều nhân tố không chỉ có ở chế độ bảo hộ quyền của người tạo ra công
nghệ. TRIPS cũng đặt ra yêu cầu cần hoàn chỉnh và điều chỉnh hệ thống lập pháp
và đảm bảo thực thi của các nước, trước hết là các nước đang phát triển.
4.
Cơ chế giải quyết tranh chấp
Trong
quan hệ thương mại quốc tế, quyền lợi của các quốc gia luôn mâu thuẫn với nhau,
và rất dễ xảy ra tranh chấp. Do vậy, hệ thống thương mại đa biên mà các nước
thành viên WTO nỗ lực xây dựng sẽ không thể tồn tại và hoạt động hiệu quả nếu
như thiếu đi cơ chế giải quyết tranh chấp.
Cho
tới trước Vòng đàm phán Uruguay, việc giải quyết tranh chấp giữa các nước ký
kết GATT dựa vào hai cơ chế chủ yếu: (1) điều khoản XXII - Tham vấn và XXIII -
Bảo vệ các Ưu đãi và Lợi ích - của Hiệp định GATT, (2) cơ chế giải quyết tranh
chấp của mỗi hiệp định đa phương.
Cơ chế giải
quyết tranh chấp đó vẫn bị coi là có những hạn chế sau:
·- Các nghị
quyết đạt được không giải quyết được những tranh chấp phát sinh, thường dẫn đến
việc các bên thương lượng hoà giải là chính;
·-
Hệ thống giải quyết tranh chấp không mang tính chất tự động, do vậy bên bị kiện
có thể dễ dàng gây khó khăn để ngăn cản một nhóm chuyên trách (Ban Hội thẩm)
tiến hành hoạt động của mình;
·-
Thời hạn tiến hành quy trình giải quyết tranh chấp quá dài;
·-
Hệ thống không có cơ chế bảo đảm cho các nghị quyết được thực hiện.
Những
khiếm khuyết này làm giảm bớt hoặc mất đi những giá trị của tự do hoá thương
mại mà hệ thống thương mại đa phương mang lại. Các nước tham gia GATT, trước
hết là các nước đã vấp phải tranh chấp với đối tác có thế lực trong thương mại
mạnh hơn mình, đã quan tâm nhiều đến việc cải thiện cơ chế giải quyết tranh
chấp của hệ thống thương mại đa biên.
·Vì vậy,
trong Vòng đàm phán Uruguay ,
cơ chế giải quyết tranh chấp là một trong 15 nội dung lớn được đưa ra đàm phán.
Vòng đàm phán Uruguay đã đạt được một thành công lớn là đưa ra được một cơ chế
giải quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại
quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế rất nhiều những hành
động đơn phương, độc đoán của những cường quốc thương mại, cho phép nhanh chóng
tháo gỡ những bế tắc vốn thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Vì thế,
hiệu quả của hệ thống thương mại đa biên thế giới được nâng cao hơn nhiều. Các
nước đang phát triển, chậm phát triển và ngay cả những nước phát triển tương
đối yếu hơn coi đây là một thắng lợi và một lợi ích chính có thể có được từ hệ
thống đa biên.
Trước
hết cần khẳng định là giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ đa biên có đối
tượng là tranh chấp về chính sách thương mại của các nước thành viên chứ không
phải là tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện hợp đồng thương mại.
Thoả thuận về
Giải quyết tranh chấp của WTO rất chú trọng giai đoạn tham vấn, nhằm tạo một cơ
hội để các bên liên quan tới vấn đề đang tranh chấp có thể tìm kiếm được một
giải pháp thoả đáng. Tham vấn là thủ tục đầu tiên nhằm tránh khả năng phải đi
đến thủ tục bắt buộc. Ngoài ra còn có những bước đi có thể mang tính chất tự
nguyện như yêu cầu Tổng Giám đốc WTO làm trung gian hoà giải hay thống nhất đưa
ra trọng tài.
Nếu
giai đoạn nói trên không đi đến một giải pháp thoả đáng trong thời hạn cho phép
(60 ngày), một nhóm công tác đặc biệt sẽ được lập ra (trừ khi Cơ quan chuyên
trách về giải quyết tranh chấp nhất trí tuyên bố không chấp nhận việc này).
Nhiệm vụ của nhóm là đánh giá thực tế sự việc và khả năng sử dụng các quy định
của thoả thuận, đưa ra những đánh giá thích đáng để Cơ quan giải quyết tranh
chấp có cơ sở khuyến nghị. Thông thường nhóm đặc trách có ba thành viên, trừ
khi các bên liên quan đến tranh chấp đề nghị cần có năm thành viên. Các thành
viên được lựa chọn trên cơ sở một danh sách các chuyên gia được Ban Thư ký WTO
giới thiệu. Khi có nhiều tranh chấp về cùng một nội dung, có thể giao cho cùng
một nhóm đặc nhiệm giải quyết. Nhóm có thẩm quyền chỉ định một nhóm tư vấn làm
nhiệm vụ phân tích những vấn đề mang tính chất kỹ thuật hay khoa học.
Đặc
điểm chung của cơ chế mới về giải quyết tranh chấp là tính thống nhất và chắc
chắn.
Không
hạn chế những cơ hội tham vấn và hoà giải, nhưng cơ chế mới đảm bảo để các cam
kết liên quốc gia được thực hiện nghiêm chỉnh. Thoả thuận cũng bao hàm việc
loại trừ khả năng các bên giải quyết tranh chấp bằng một cơ chế bên ngoài.
Một
cơ quan phúc thẩm cũng được thể chế hoá với những thành viên luân phiên mang
đại diện cho các thành viên - đó là Uỷ ban Kháng nghị (Appelate). Nếu kết quả
giải quyết tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có quyền lợi bị vi
phạm được quyền áp dụng những biện pháp trả đũa, thậm chí trả đũa chéo nếu
những biện pháp trả đũa áp dụng với cùng một lĩnh vực (thuộc phạm vi điều chỉnh
của cùng một hiệp định) không được coi là đạt kết quả mong muốn.
Tính
đến tháng 10/1999, trong chưa đầy 5 năm tồn tại, WTO với tư cách là diễn đàn
giải quyết tranh chấp đã đưa ra 169 quyết định về các vụ tranh chấp, trong đó
có 49 vụ do Hoa Kỳ đề xuất.
Bảng:
Quy trình Giải quyết Tranh chấp của WTO
60 ngày
|
Tham vấn
(Điều 4)
|
|
â
|
||
Trong kỳ họp thứ hai của DSB
|
Thành lập Ban
Hội thẩm
(Do Cơ quan Giải quyết Tranh
chấp (DSB)) (Điều 6)
|
|
â
|
||
0-20 ngày (thêm 10 ngày nếu
Tổng Giám đốc được yêu cầu chọn BHT)
|
Điều khoản hoạt động (Điều 7)
Thành phần (Điều
8)
|
|
â
|
||
Ban Hội thẩm xem
xét
Họp với các bên (điều 12)
và bên thứ 3 có liên quan (điều
10)
|
Nhóm chuyên gia thực hiện rà
soát (Điều 13; Phụ lục 4)
|
|
â
|
||
Giai đoạn rà
soát giữa kỳ
Phần báo cáo mô tả được gửi cho
các bên để đánh giá (Điều 15.1). Báo cáo giữa kỳ được gủi cho tất cả các bên
xem xét (Điều 15.2)
|
Họp rà soát với Ban hội thẩm
theo yêu cầu (Điều 15.2)
|
|
â
|
||
6 tháng kể từ khi thành lập Ban
Hội thẩm, 3 tháng trong trường hợp khẩn cấp
|
Báo cáo của Ban
Hội thẩm
gửi cho tất cả các bên (điều
12.8; Phụ lục 3 đoạn 12 (j))
|
|
â
|
||
9 tháng từ khi thành lập BHT
|
Báo cáo của Ban
Hội thẩm
lên DSB (Đ.21.9; Phụ lục 3,
đoạn 12 (k))
|
|
â
|
Rà soát của Uỷ Ban kháng nghị
(Đ 15.2)
|
|
60 ngày dàng cho báo cáo của
BHT, trừ khi có kháng nghị
|
DSB chấp nhận báo cáo của
Ban Hội thẩm bao gồm bất cứ thay đổi báo cáo của Ban Hội thẩm nào do UBKN
thực hiện
(Đ.16.1,16.4 và
17.14)
|
30 ngày dành cho Uỷ Ban Kháng
nghị rà soát
|
â
|
||
Thời hạn hợp lý do các thành
viên đề xuất, hoặc các bên tranh chấp thoả thuận hoặc trọng tài phán quyết
(khoảng 15 tháng nếu trọng tài phán quyết)
|
Thực thi
Báo cáo của bên thua kiện về dự
kiến thực thi với "một thời hạn hợp lý"
|
Tranh chấp về việc thực thi:
Có thể kiện, bao gồm cả tham
khảo với Ban Hội thẩm đầu tiên về việc thực thi (Đ21.5)
(90 ngày)
|
â
|
||
Trong trường hợp
không thực thi
các bên đàm phán việc đền bù vì
ngừng thực thi đầy đủ (Đ22.2)
|
||
â
|
||
30 ngày sau khi "thời hạn
hợp lý kết thúc"
|
Biện pháp Trả
đũa
Nếu không nhất trí được về việc
bồi thường, DSB cho phép trả đũa việc không thực thi đầy đủ (Đ22)
Trả đũa chéo:
Trong cùng ngành hàng, các
ngành hàng khác, hiệp định khác (Đ22.3)
|
Có thể đưa ra trọng tài về mức
độ đình chỉ và các nguyên tắc trả đũa
(Đ.22.6 và 22.7)
|
5.
Rà soát chính sách thương mại
Một trong những
chức năng cơ bản của WTO là tiến hành hoạt động rà soát chính sách thương mại
của các nước thành viên. Mục tiêu của công việc này là nhằm đảm bảo các thành
viên tuân thủ đầy đủ các quy định, luật lệ và các cam kết của các hiệp định
thương mại đa phương, tạo được sự minh bạch hơn nữa trong các chính sách và
hành vi thương mại của các nước thành viên.
Cơ
quan Rà soát chính sách thương mại (TPRB) là cơ quan tiến hành các cuộc rà
soát.
Việc
rà soát chính sách thương mại được tiến hành định kỳ. Yếu tố quyết định mức độ
thường xuyên của việc phải rà soát chính sách thương mại của mỗi nước chính là
ảnh hưởng của nước đó đối với hệ thống thương mại đa phương, được tính bằng thị
phần của họ trên thương mại thế giới trong một giai đoạn cơ sở. Bốn nền kinh tế
hàng đầu thế giới là Hoa Kỳ, Nhật, EU và Canada phải tiến hành rà soát 2 năm
một lần, 16 nước tiếp theo đó sẽ tiến hành rà soát 4 năm 1 lần, các nước còn
lại rà soát 6 năm một lần, trừ các nước chậm phát triển nhất được chậm rà soát
hơn nữa.
Đối
tượng của các cuộc rà soát là chính sách và hành vi thương mại của các nước
thành viên.
TPRB
sẽ tiến hành việc rà soát dựa trên 2 tài liệu cơ bản sau đây:
- Báo cáo chính thức của nước
được rà soát;
- Báo cáo do Ban Thư ký soạn thảo
dựa trên những thông tin có được và những thông tin do các thành viên có liên
quan cung cấp.
Báo
cáo do nước được rà soát thực hiện phải mô tả đầy đủ những chính sách và tập
quán thương mại nước mình áp dụng, dựa trên một mẫu do TPRB đưa ra. Ban Thư ký
cũng sẵn sàng trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các
nước chậm phát triển trong quá trình thực hiện báo cáo này. Giữa các kỳ rà
soát, nếu có thay đổi lớn trong chính sách thương mại, các nước sẽ đưa ra báo
cáo vắn tắt .
Hai
báo cáo này, cùng với biên bản các cuộc họp rà soát sẽ được đưa ra nhanh chóng
sau cuộc rà soát. Những báo cáo này sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng.
Cơ
quan TPRB sẽ tiến hành đánh giá hoạt động của Cơ chế Rà soát Chính sách Thương
mại trong vòng 5 năm sau khi Hiệp định thành lập WTO có hiệu lực, hoặc vào
những thời điểm khác nếu Hội nghị Bộ trưởng yêu cầu.
Hàng
năm, TPRB cho ra một Báo cáo tổng quát về những tiến triển trong môi trường
thương mại quốc tế. Báo cáo này đi kèm với báo cáo hàng năm của Tổng Giám đốc
trình bày những hoạt động chính của WTO và nêu bật những vấn đề chính sách lớn
có ảnh hưởng đến hệ thống thương mại.
IV. Tiến trình Việt Nam gia nhập
WTO
1. Thủ tục đàm phán gia nhập WTO
Tiến
trình đàm phán:
Các
cuộc đàm phán gia nhập sẽ được tiến hành theo hai giai đoạn:
- Giai
đoạn 1: làm rõ chính
sách, cơ chế chính sách thương mại hiện hành. Giai đoạn này thường diễn ra với
2-4 phiên họp đầu tiên của Ban công tác. (Ban Công tác bao gồm các thành viên
WTO có quan tâm đến thị trường của nước xin gia nhập).
Nội dung chính
của các phiên họp đầu tiên này là minh bạch chính sách ngoại thương của nước
xin gia nhập, cung cấp thông tin về phương hướng phát triển các chính sách đó.
Việc minh bạch hoá được thực hiện trên cơ sở Bị vong lục về Chế độ Ngoại thương
và trả lời các câu hỏi của các nước thành viên xung quanh bản Bị vong lục này.
- Giai
đoạn 2: đàm phán mở cửa thị trường, với những trao đổi ưu đãi
thương mại. Nhìn chung, để được hưởng thành quả của 50 năm đàm phán và ưu đãi
trong nội bộ WTO, nước xin gia nhập sẽ phải đưa ra ưu đãi một chiều và mức độ
ưu đãi phụ thuộc nhiều vào khả năng chứng minh chính sách của quốc gia đó sẽ
đáp ứng được các mục tiêu đã đề ra tại phần mở đầu của Hiệp định GATT.
Phương
thức đàm phán:
Đàm
phán gia nhập WTO được tiến hành theo hai phương thức song song với nhau và bổ
sung cho nhau: đàm phán đa phương tại trụ sở Ban Thư ký WTO và đàm phán song
phương tại Trụ sở WTO hoặc tại thủ đô nước xin gia nhập (hoặc nước yêu cầu đàm
phán).
Đàm
phán đa phương được thực hiện tại các phiên họp của Ban công tác về việc gia
nhập WTO. Trong khuôn khổ đàm phán đa phương, các nước khẳng định quan điểm của
mình, đàm phán các cam kết có giá trị áp dụng chung và tổng kết các thành quả
của các cuộc đàm phán song phương. Đàm phán đa phương thường ngắn, chỉ mang
tính chất chính thức hoá những cam kết song phương. Đàm phán song phương mới
thực sự gay go quyết liệt.
Đàm
phán song phương được tiến hành trước hoặc ngay sau các phiên họp đa phương.
Nước xin gia nhập chỉ được kết nạp sau khi đã đạt được thoả thuận tại tất cả
các cuộc đàm phán song phương.
2.
Tiến trình đàm phán gia nhập của Việt Nam
Tháng 6/1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên
của GATT.
Ngày 4/1/1995 , ngày đầu mở cửa,
WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam .
Ngày
30/1/1995 , Ban
công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam được thành lập.
Ngày
26/8/1996 , Việt Nam
nộp bản Bị vong lục về Chế độ Ngoại thương. Bản Bị vong lục được trình bày theo
mẫu chung do Ban Thư ký WTO hướng dẫn.
Đến
nay, Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam đã tiến hành 3 phiên họp:
Phiên
I: ngày 27-28/7/1998
Phiên
II: ngày 3/12/1998
Phiên
III: ngày 22/7/1999
Trong
3 phiên họp này, đoàn Việt Nam đã thực hiện việc minh bạch hoá một cách tổng
thể, toàn diện và sâu sắc thực trạng hệ thống và diễn biến chính sách thương
mại của Việt Nam về hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ. Việt Nam cũng đã đưa ra chương trình thể
chế hoá pháp luật.
Tính
đến tháng 2/2000, Việt Nam
đã nhận được 1.376 câu hỏi và đã trả lời 1.216 câu hỏi. Các câu trả lời của
Việt Nam
được đánh giá là nghiêm túc, có chất lượng cao. Hiện nay, các Bộ Ngành đang
tích cực hoàn chỉnh các câu còn lại.
Chúng
ta cũng đã tiến hành xây dựng một số tài liệu quy định của WTO như:
-
Bảng hiện trạng về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản
(theo mẫu biểu WT/ACC/4);
-
Bảng doanh nghiệp thương mại nhà nước (theo mẫu biểu G/STR/N/4);
-
Bảng trợ cấp công nghiệp (theo mẫu biểuG/SCM/N).
Với tư cách quan sát viên, Việt Nam
tham gia các Hội nghị Bộ trưởng WTO.
Hiện
nay, Việt Nam
đang tích cực chuẩn bị cho các phiên đàm phán
sắp tới. Theo Ban Thư ký WTO, đã đến lúc Việt Nam, bên cạnh việc tiếp
tục minh bạch hoá chính sách, đưa ra các bản chào mở cửa thị trường của mình,
đặc biệt là các bản chào về thương mại hàng hoá mà nội dung chủ yếu là thuế và
phi thuế.
Việt
Nam cũng đang tích cực chuẩn bị cho đàm phán song phương với một số thành viên
WTO có quan tâm, trước mắt có thể là với EU, Thuỵ Sĩ, Hoa Kỳ, Argentina, Hàn
Quốc, Australia...
·
·
3. Giải pháp
trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO
Một trong những
giải pháp cơ bản mà Việt Nam
cần thực hiện để xúc tiến tiến trình gia nhập WTO là nâng cao tính chủ động thông
qua các biện pháp cơ cấu lại nền kinh tế, hệ thống lại hành lang pháp lý, điều
chỉnh môi trường kinh doanh, đào tạo cán bộ. Vừa qua, Quốc hội đã thông qua
Luật Thương mại, Luật Đầu tư sửa đổi, Luật thuế trị giá gia tăng và nhiều luật
khác... Đó là những bước đi chủ động trong tiến trình này.
Các
doanh nghiệp là những người sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quá trình gia nhập
WTO. Do vậy, chúng ta cần tăng cường công tác chuẩn bị cho doanh nghiệp để có
thể đánh giá đúng những cơ hội và thách
thức nhằm có chương trình thích ứng và tận dụng những cơ hội có được.
Đàm
phán gia nhập có rất nhiều khó khăn. Vấn đề cơ bản là chúng ta phải chuẩn bị và
tiến hành thích ứng từng bước với các quy định và nghĩa vụ của WTO dựa trên cơ
sở nhu cầu phát triển kinh tế đất nước hiện nay cũng như trong tương lai trung
và dài hạn.
Công
tác đào tạo đội ngũ cán bộ, cải tiến cơ chế phối hợp giữa nhiều ngành cũng cần
được chú trọng thích đáng.
Hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình toàn diện và phức tạp. Kinh nghiệm cho thấy Việt
Nam
cần kết hợp đàm phán WTO với các diễn đàn đàm phán khác trong một tổng thể của
công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế để đạt được hiệu quả cao nhất.
Phụ lục 1
Chi tiết về chế Độ
đãi ngộ tối huệ quốc
(Most - Favoured
Nation - MFN)
Nguyên tắc MFN
yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với
hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu
tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Các lĩnh vực cho hưởng Đãi
ngộ Tối huệ quốc
1. Thuế quan và khoản thu thuộc bất kỳ loại nào
nhằm vào hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản
chuyển khoản để thành toán hàng nhập xuất, nhập khẩu (I.1-điều I mục 1- Hiệp
định GATT). Hàng nhập khẩu từ nước thành viên bất kỳ không phải chịu
thuế và/hoặc khoản thu nêu trên cao hơn hàng nhập từ một nước thành viên khác
2. Phương thức đánh thuế và thu các khoản nêu
trên (I.1). Không được đánh thuế cụ thể với hàng từ một xuất xứ song lại
đánh thuế phần trăm với hàng nhập từ xuất xứ khác,. hoặc thu thuế hay các khoản
thu trên bằng ngoại tệ với hàng nhập từ xuất xứ này nhưng với hàng đó nhập từ
xuất xứ khác thu bằng nội tệ...
3. Luật lệ và các thủ tục liên quan tới xuất
nhập khẩu (I.1). Không áp dụng những thủ tục khác (ví dụ yêu cầu chứng từ bổ
sung với một loại hàng) mang tính chất phân biệt đối xử giữa hàng có xuất xứ từ
các nước thành viên khác nhau.
4. Thuế nội địa và mọi khoản thu nội địa thuộc
bất cứ loại nào (I.1). Không thu phân biệt giữa hàng thuộc các xuất xứ khác
nhau...
5. Mọi luật (quốc gia hay địa phương),
quy tắc, quy định có tác động đến bán hàng, chào bán, mua, vận tải, phân phối hay sử dụng hàng trên
thị trường nội địa (I.1) (ví dụ quy định về nhãn hàng, bao bì, đóng gói, hạn
chế về vận chuyển hay kênh tiêu thụ, hay bất kỳ một biện pháp áp dụng riêng nào
khác)... phải được áp dụng không mang tính phân biệt đối xử giữa hàng thuộc các
xuất xứ khác nhau.
6. Các quy tắc định lượng nội địa điều chỉnh
việc pha trộn, chế biến hay sử dụng tính theo khối lượng hay tỷ lệ(III.7). Ví
dụ: quy định bắt buộc hay khuyến khích dùng một định lượng tối thiểu hàng nhập
phải được áp dụng không mang tính phân biệt đối xử với hàng thuộc các xuất xứ
khác nhau...
7. Thời gian trình chiếu phim điện ảnh (VI.b)
8. Đãi ngộ
với hàng hoá quá cảnh (V.2 và V.6).
9. Các yêu cầu áp dụng với nhãn xuất xứ hàng hoá
(IX.1) ...
10. áp dụng
các hạn chế số lượng (XIII.1).
11. Hoạt động mua bán trong kinh doanh xuất nhập
khẩu của doanh nghiệp thương mại Nhà nước (XVII.1). (Doanh nghiệp thương mại
Nhà nước là những doanh nghiệp được dành riêng một độc quyền hay một đặc quyền
trong kinh doanh theo định nghĩa của WTO không đồng nghĩa với doanh nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước không chịu sự điều chỉnh của WTO).
Những ngoại lệ của Đãi ngộ Tối huệ quốc
1. Các ưu
đãi khu vực (I.2 -> 4)
2. Điều
khoản cho phép đãi ngộ đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển
(quyết định của Các Bên Ký Kết- chữ Các Bên Ký Kết khi được viết hoa tất cả
như vậy có nghĩa là hành động tập thể của tất cả các bên ký kết).
3. Mua sắm
của Chính phủ (XVII.2)
4. Nhất thể
hoá khu vực dưới hình thức liên minh thuế quan và khu vực mậu dịch tự do (XXIV.
4 ->10)
5. Mậu dịch biên giới (XXIV.3)
6. Các ngoại
lệ chung mang (XX)
7. Ngoại lệ
vì lý do an ninh (XXI)
8. Miễn
trách không phải thi hành một nghĩa vụ của
GATT
9. Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng
(VI)
Phụ lục 2
Phụ lục 2
chế độ đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT)
Nguyên tắc NT
yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và
hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một
sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và
các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản
phẩm tương tự sản xuất trong nước
Các lĩnh vực cho hưởng Đãi
ngộ Quốc gia
1.
Các khoản thuế và khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào;
2.
Luật, quy tắc hay yêu cầu tác động tới bán hàng, chào bán, mua hàng, vận tải,
phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa (III.4);
3.
Những quy tắc định lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng
sản phẩm tính theo khối lượng hay theo tỷ lệ(III.5).
Những ngoại lệ của Đãi ngộ Quốc gia
1.
Mua sắm của Chính phủ (III.8). Tuy nhiên nếu một nước tham gia Hiệp định về mua
sắm của Chính phủ thì đây không còn là ngoại lệ nữa;
2.
Thanh toán các khoản trợ cấp chỉ dành riêng cho các nhà sản xuất trong nước
(III.8.b);
3. Hạn ngạch về thời gian trình chiếu phim điện
ảnh (III.10 và IV).
Phụ lục 3
những
biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs)
* Hiệp định TRIMS chỉ áp dụng trong thương mại
hàng hoá.
* Trong 13 biện pháp các nước đang phát triển
thường áp dụng, được liệt kê dưới đây thì 5 biện pháp đầu (từ 1-5) bị coi là vi
phạm nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia và Hạn chế về định lượng nên bị cấm áp dụng.
1. Yêu cầu về hàm lượng nội địa (Local
Content Requirements - LCRs). Đòi hỏi phải sử dụng một tỷ lệ
nhất định nguyên liệu trong nước làm đầu vào của sản xuất.
2.
Yêu cầu cân đối thương mại (Trade
Balance Requirements). Ràng buộc nhập khẩu phải tương ứng với
một tỷ lệ xuất khẩu nhất định.
3.
Yêu cầu cân đối ngoại tệ.
Quy định ngoại tệ có thể sử dụng để nhập khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định
trong tổng ngoại tệ doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu hoặc từ các nguồn khác.
4.
Hạn chế hối đoái. Hạn chế
tiếp cận ngoại hối và do đó hạn chế nhập khẩu.
5.
Yêu cầu tiêu thụ nội địa.
Buộc công ty bán tỷ lệ nhất định thành phẩm trên thị trường nội địa mà thực
chất là hạn chế xuất khẩu.
6.
Yêu cầu về chế tác.
Đòi hỏi những sản phẩm nhất định phải được sản xuất tại nước tiếp nhận đầu tư.
7.
Quy định về xuất khẩu (EPRs).
Quy định một tỷ lệ sản phẩm nhất định phải xuất khẩu.
8.
Yêu cầu về sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Buộc nhà đầu tư cung cấp cho một thị trường xác định một hoặc
những sản phẩm theo chỉ định hoặc được sản xuất từ các thiết bị hay quy trình
đã được quy định.
9.
Hạn chế về chế tác. Không
cho phép sản xuất những sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm nhất định tại nước tiếp
nhận đầu tư.
10.
Yêu cầu về chuyển giao công nghệ. Quy định các công nghệ nhất định
phải được chuyển giao theo các điều kiện phi thương mại và/hoặc dạng cũng như
mức độ của các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R & D) phải được thực
hiện tại nước chủ nhà.
11.
Quy định về chuyển giao bản quyền. Buộc nhà đầu tư chuyển bản quyền
các công nghệ của họ cho nước chủ nhà.
12.
Hạn chế chuyển vốn. Hạn chế quyền của nhà đầu tư được chuyển tiền
thu được từ hoạt động đầu tư về nước.
13.
Yêu cầu về nắm giữ cổ phiếu. Quy định một tỷ lệ nhất định cổ
phần của liên doanh phải do các nhà đầu tư trong nước nắm giữ.
Phụ
lục 4
Một số điều khoản khác trong khuôn khổ hiệp định GATS
Một số điều
khoản còn lại trong khuôn khổ Hiệp định GATS có thể được chia ra làm hai nhóm
chính.
A. Các điều khoản về tiếp tục
đàm phán
Khuôn khổ Hiệp định này cho phép
các nước thành viên tiếp tục tiến hành đàm phán để phát triển các quy tắc điều
chỉnh việc sử dụng trợ cấp và việc áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại
dịch vụ.
B. Các điều khoản về miễn trừ
Miễn trừ Tối huệ quốc.
Miễn trừ này cho phép các nước được phép duy trì cách đối xử ưu đãi hơn mức cam
kết trong GATS đối với một số nước theo các thoả thuận hợp tác khu vực hay các
thoả thuận khác.
Hội nhập kinh tế. Hiệp
định này cho phép các nước tham gia vào các thoả thuận tự do hoá thương mại với
một số ít nước, với điều kiện là những lĩnh vực dịch vụ cơ bản phải được cam
kết trong đó và phải tuân thủ một số điều kiện khác.
Hạn chế cán cân thanh toán.
Các nước thành viên được phép áp đặt các hạn chế về chuyển khoản trong cán cân
thanh toán, thậm chí cả ở trong các lĩnh vực mà họ đã đưa ra các cam kết cụ
thể, khi cán cân thanh toán của các nước này gặp khó khăn.
Hội nhập vào thị trường lao
động. Hiệp định này không ngăn cản các nước thành viên tham gia vào một
thoả thuận với một nước khác về hội nhập hoàn toàn thị trường lao động giữa các
nước này bằng cách miễn cho công dân của nhau những yêu cầu cấp phép lao động.
Ngoại lệ chung và ngoại lệ
liên quan đến an ninh. Cũng giống như với thương mại hàng hoá, Hiệp định
GATS không ngăn cản các nước áp dụng các biện pháp mà họ cho là cần thiết để
bảo về các đạo đức xã hội, đời sống con người, động, thực vật; hay các quyền
lợi an ninh cốt yếu của mình.
Phụ lục 5
quyền sở hữu trí tuệ
Các hình thức của QUyền sở hữu trí tuệ
|
Đối tượng
|
Phạm vi áp dụng
|
Các thoả thuận quốc tế chính
|
|
Sở
hữu công nghiệp
|
Bằng
sáng chế
|
Các
phát minh mới trong lĩnh vực công nghiệp
|
Lĩnh
vực chế tạo
|
Công
ước
|
Thiết
kế hữu ích
|
Thiết
kế vận hành
|
Lĩnh
vực chế tạo
|
Công
ước
|
|
Kiểu
dáng công nghiệp
|
Kiểu
dáng bên ngoài của sản phẩm
|
Quần
áo, ô tô, thiết bị điện tử...
|
Hiệp
định Hague, Công ước
|
|
Nhãn
hiệu hàng hoá
|
Tên
hoặc biểu tượng để phân biệt hàng hoá và dịch vụ của một doanh nghiệp với các
doanh nghiệp khác
|
Các
ngành
|
Công
ước
|
|
Chỉ
dẫn địa lý
|
Chỉ
rõ xuất xứ của hàng hoá, qua đó thể hiện chất lượng hoặc các đặc điểm khác
đặc trưng cho khu vực
|
Công
nghiệp chế biến nông sản và thực phẩm, đặc biệt là rượu vang và rượu mạnh
|
Hiệp
định
|
|
Sở
hữu văn học và nghệ thuật
|
Bản
quyền và các quyền liên quan
|
Nguyên
tác của tác giả và các đóng góp liên quan của người thể hiện, nhà sản xuất
băng đĩa, và tổ chức truyền thông.
|
ấn
phẩm, sản phẩm giải trí, (nghe, nhìn, phim), phần mềm, chương trình truyền
thông
|
Công
ước Berne(**), Công ước
|
Bảo vệ các giống đặc thù
|
Quyền
của người gây giống
|
Các
loài mới, ổn định, thuần nhất, đặc biệt
|
Nông
nghiệp và thực phẩm
|
Liên
minh bảo vệ các giống cây trồng mới (UPOV)
|
Vi
mạch
|
Thiết
kế gốc
|
Công
nghiệp vi điện tử
|
Hiệp
ước
|
|
Bí
mật thương mại
|
Bí
mật thông tin thương mại
|
Các
ngành sản xuất
|
_____________________________________
(*) Công
ước Paris 1883,
có tên gọi đầy đủ là Công ước về Bảo hộ Quyền Sở hữu công nghiệp. Việt Nam đã
tham gia Công ước này từ tháng 3 năm 1949.
(**) Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn hoá
văn nghệ còn gọi tắt là Công ước Bern-1886. Nội dung chủ yếu cũng là dành đãi
ngộ quốc gia và quy định tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu với những điều kiện dành
riêng cho các nước đang phát triển.
(***) Công ước quốc tế về bảo hộ những người trình diễn, người sản
xuất các chương trình âm thanh và các tổ chức phát sóng, gọi tắt là Công ước Rome 1961. Nội dung chính
của Công ước là chế độ đãi ngộ quốc gia và bảo hộ tối thiểu.