Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu tỉnh Sóc Trăng (Phần 2)
Hình: Diện tích ngập lụt tại Sóc Trăng với kịch bản nước biển dâng 75 cm (Theo bản đồ DEM của Trung tâm Viễn thám Quốc gia, Bộ TN&MT)
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, TÍNH DỄ BỊ TỔN HẠI DO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GÂY RA ĐỐI VỚI LƯỢNG MƯA, BỐC THOÁT HƠI TIỀM NĂNG, LƯU VỰC SÔNG VÀ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT, NƯỚC NGẦM TỈNH SÓC TRĂNG
I. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GÂY RA ĐỐI VỚI LƯỢNG MƯA VÀ BỐC HƠI
1. Lượng mưa và bốc hơi trong
chu trình thủy văn
a) Chu trình thủy văn
The hydrological cycle begins with
evaporation from the surface of the ocean or land, continues as the atmosphere
redistributes the water vapor to locations where it forms clouds, and then
returns to the surface as precipitation.Chu trình thuỷ văn bắt đầu với bốc hơi từ
bề mặt của đại dương, đất, tiếp tục như bầu khí quyển phân phối hơi nước đến
các địa điểm nơi mà nó tạo mây, và sau đó trở lại bề mặt như lượng mưa. The cycle ends when the precipitation is either absorbed
into the ground or runs off to the ocean, beginning the process over again.Chu
trình kết thúc khi lượng mưa, hoặc là hấp thu vào mặt đất hoặc chạy ra đến đại
dương, bắt đầu quá trình trên một lần nữa.
Những tác động chính làm tKey
changes to the hydrological cycle (associated with an increased concentration
of greenhouse gases in the atmosphere and the resulting changes in climate)
include:hay
đổi chu trình thuỷ văn (liên kết với một nồng độ tăng lên của khí nhà kính
trong khí quyển và những thay đổi dẫn đến biến đổi khí hậu) bao gồm:
ü Changes
in the seasonal distribution and amount of precipitation. Thay đổi trong việc phân phối
theo mùa và lượng mưa.
ü An
increase in precipitation intensity under most situations. Tăng cường độ mưa theo hầu hết các
tình huống.
ü Changes
in the balance between snow and rain. Thay đổi trong sự cân bằng giữa tuyết và
mưa.
ü Increased
evapotranspiration and a reduction in soil moisture. Sự bốc hơi tăng và giảm độ ẩm
trong đất.
ü Changes
in vegetation cover resulting from changes in temperature and precipitation. Thay đổi trong lớp phủ thực vật
do thay đổi về nhiệt độ và lượng mưa.
ü Consequent
changes in management of land resources. Hậu quả thay đổi trong quản lý tài nguyên
đất.
ü Accelerated
melting glacial ice. Tăng tốc băng tan chảy băng giá.
ü Increases
in fire risk in many areas. Tăng nguy cơ cháy trong nhiều lĩnh vực.
ü Increased
coastal inundation and wetland loss from sea level rise. Tăng ngập lụt và mất đất ngập
nước ven biển từ nước biển dâng.
ü Effects
of CO on plant physiology, leading to
reduced transpiration and increased water use efficiency (Goudie 2006). Ảnh hưởng của CO2 trên sinh lý học thực vật, dẫn
đến thoát hơi nước giảm và sử dụng nước tăng (Goudie 2006).
b) Lượng mưa và bốc hơi với các yếu tố khác trong xu thế biến đổi
khí hậu
Theo IPCC, sự gia
tăng nhiệt độ toàn cầu trung bình là rất có khả năng dẫn đến thay đổi về lượng
mưa và độ ẩm trong khí quyển do thay đổi trong lưu thông không khí và tăng bốc
hơi và hơi nước.
- Sự gia tăng lượng
mưa hàng năm trung bình toàn cầu trong thế kỷ 21, mặc dù những thay đổi về
lượng mưa sẽ khác nhau tùy theo vùng.
- Tăng cường độ của
lượng mưa, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới và vĩ độ cao.
- Giảm lượng mưa
trên lục địa trong mùa hè do tăng bốc hơi.
Tăng sự bốc hơi trên
lục địa và đại dương dẫn đến tăng hàm lượng ẩm trong khí quyển và tăng hội tụ
ẩm vận chuyển từ đại dương vào lục địa. Tăng tính biến động tính dị thường và
cực đoan của các yếu tố khí hậu và hiện tượng thời tiết nắng, nóng, rét, bão,
lũ, mưa lớn, hạn hán, tố, lốc... Đặc biệt là trong những trường hợp liên quan
đến hoạt động của El nino, La Nina. Cụ thể là thay đổi về hoàn lưu gió bao gồm
cả những nhiễu động khí quyển, hàm lượng ẩm trong khí quyển và bốc hơi sẽ làm
thay đổi về lượng mưa và phân bố mưa theo không gian và thời gian, dẫn đến
những thay đổi trong chế độ thuỷ văn và tài nguyên nước cũng như thiên tai liên
quan đến nước, ảnh hưởng đến hoạt động của các hồ chứa.
2. Những tác động đến lượng mưa và bốc hơi tại tỉnh Sóc Trăng
a. Xu thế biến đổi lượng mưa tại nước ta
Xu thế biến đổi của lượng mưa ở nước ta không
nhất quán giữa các khu vực và các thời kỳ. Sự thay đổi về tổng lượng mưa
tháng và mưa năm không thể hiện xu thế tăng hay giảm nhưng cường độ mưa đang
có xu hướng tăng lên rõ rệt. Trên phần lớn lãnh thổ lượng mưa mùa giảm đi
trong tháng 7, 8 và tăng lên trong các tháng 9, 10, 11. Mưa phùn giảm đi rõ
rệt ở Bắc Bộ và Bắc Trung bộ.
Thay đổi lượng mưa
trong tương lai tại Việt Nam là rất phức tạp, theoseason
and region specific. mùa và theo khu vực cụ thể.Monthly rainfall is already decreasing in most of the
country in Hàng tháng lượng mưa đã giảm ở các July and August and increasing in September, October and
November (MoNRE 2003), andtháng 7 và tháng 8 và ngày càng tăng trong
tháng 9, tháng 10 và tháng 11 (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2003), vàrainfall
intensity is increasing considerably (Nguyen 2006). cường độ mưa đang
tăng lên đáng kể.Compared to 1990, annual total
So với năm 1990, tổng lượng mưa hàng năm rainfall
is expected to increase in the range 2.5 percent to 4.8 percent by 2050 and by
4.7dự kiến sẽ tăng trong khoảng 2,5% - 4,8% vào năm 2050 và bằng 4,7% - percent to 8.8 percent by 2100.8,8% vào năm 2100.The increase will be largest in the north of Viet Nam
and Sự gia tăng sẽ được lớn nhất ở phía bắc của Việt Nam và least in the southern plains (Hoang & Tran 2006).ít
nhất là trong vùng đồng bằng miền Nam.It is
expected that rainfall will be Dự kiến mưa sẽ đượcconcentrated, even more than now, in the rainy season
months, leading to an exacerbation tập trung, thậm chí nhiều hơn hiện
nay, trong những tháng mùa mưa, dẫn đến trầm trọngof
drought problems in the dry season. thêm của các vấn đề hạn hán trong
mùa khô.Climate change, then, is set to make
precipitation Biến đổi khí hậu được thiết lập để làm cho lượng mưamore uneven and variable over time and space (Schaefer
2003). không đồng đều hơn và biến thiên theo thời gian và không gian (Schaefer, 2003).
Lượng mưa mùa mưa ở các khu vực, trừ Trung Bộ, đều tăng 0-5% vào
năm 2050, riêng Trung Bộ là 0 - 10%. Lượng mưa mùa khô ở các vùng Tây Bắc, Đông
Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc Trung Bộ, Nam Bộ và cực Nam
Trung Bộ có thể tăng hay giảm 5%, riêng ở Bắc và Trung Trung Bộ tăng 0 - 5%.
Đáng chú ý là ở những vùng thường xảy ra hạn hán vào mùa khô, hạn hán có nhiều
khả năng tăng lên cả về cường độ và diện tích. (Nguồn: GS. TSKH. Nguyễn Đức
Ngữ, 2009).
Khí hậu tỉnh Sóc
Trăng có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo và chia làm hai mùa rõ
rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 với trung bình 130 ngày mưa với
tổng lượng mưa đạt khoảng 1.900 mm. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm
sau. Tuy nhiên, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong thời gian tới sẽ tác động
mạnh mẽ, làm thay đổi chu trình thủy văn khu vực, gây biến đổi lượng mưa và bốc
hơi trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Theo dự báo, đến
giai đoạn 2030 – 2040 tại vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL): nhiệt độ cao
nhất trung bình trong mùa khô sẽ tăng từ 1 - 20C, mùa khô sẽ kéo
dài; lượng mưa đầu vụ Hè Thu (15/4 – 15/5) sẽ giảm chừng 10 – 20% và có thể bắt
đầu trễ hơn khoảng 2 tuần lễ so với hiện nay. Vào tháng 9 – 10, lượng mưa có
khuynh hướng gia tăng hơn kết hợp với lũ thượng nguồn làm biên của vùng ngập ở ĐBSCL
sẽ gia tăng xuống vùng Bán đảo Cà Mau. (TS.
Lê Anh Tuấn, Viện Nghiên cứu Biển đổi Khí hậu, Đại học Cần Thơ, năm 2010).
Như vậy, trong thời gian tới, mùa khô sẽ khắc nghiệt hơn với tình trạng khô hạn
kéo dài, lượng mưa giảm và quá trình bốc hơi gia tăng.
- Tác động đến lượng mưa
Lượng mưa và nhiệt
độ khu vực có liên quan với nhau. Quá trình tăng nhiệt độ không khí, ảnh hưởng
đến lượng mưa tại khu vực nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng. Khi thay
đổi khí hậu, một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp làm thay đổi lượng mưa, cường
độ, tần số mưa trong khu vực. Tăng tốc độ nóng lên bề mặt đất khô và làm tăng
mức độ hạn hán. Tuy nhiên, theo luật vật lý (quan hệ Clausius-Clapeyron) xác
định rằng khả năng giữ nước của không khí tăng khoảng 7% khi nhiệt độ tăng thêm
10C. Do đó, nhiệt độ tăng lên sẽ làm cho hơi nước tăng lên. Do lượng
mưa chủ yếu hình thành từ các hệ thống thời tiết mà nguồn cung cấp là hơi nước lưu
giữ trong khí quyển, điều này thường tăng cường lượng mưa, nguy cơ mưa lớn vào
mùa mưa trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Khí hậu ấm hơn, do
hơi nước tăng lên dẫn đến lượng mưa tăng dữ dội. Theo dự báo trên, lượng mưa mùa
mưa trên địa bàn tỉnh sẽ tăng vào khoảng từ 0 – 5%, tập trung vào tháng 9 – 10.
Điều này gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, tài nguyên nước trên địa bàn
tỉnh. Lượng mưa lớn gây gia tăng diện tích ngập úng tại các vùng nội đồng có
địa hình thấp: Tập trung ở huyện Mỹ Tú, Thạnh Trị, Ngã Năm và một phần phía Bắc
huyện Mỹ Xuyên. Diện tích vùng này hiện nay khoảng 160.000 ha, tuy nhiên trong
tương lai diện tích ngập sẽ mở rộng. Trong khi đó, vào mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau, thời gian không có mưa sẽ kéo dài. Hơn nữa, sự chênh lệch về
lượng mưa theo mùa là rất lớn, hiện nay 90% tổng lượng mưa năm tập trung vào
những tháng mùa mưa, trong khi 10% tổng lượng mưa năm còn lại tập trung vào mùa
khô, sự chênh lệch này sẽ trở nên lớn hơn khi mùa khô trở nên khắc nghiệt hơn
tạo nên sự mất cân đối trong việc phân bổ nguồn nước trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng giữa hai mùa trong năm.
Ngoài ra, khí hậu nóng
lên còn làm tăng nguy cơ hạn hán trong mùa khô, việc phân phối về thời gian
giữa lũ lụt và hạn hán trở nên sâu sắc nhất là bị ảnh hưởng bởi chu kỳ Elnino.
- Tác động đến quá trình bốc hơi
Thay đổi trong quá trình bốc hơi không chỉ phụ thuộc vào
nguồn cung cấp độ ẩm mà còn về năng lượng sẵn có và gió bề mặt đất.
Nhiệt độ tăng từ 1 -20C, làm cho độ ẩm trong
không khí giảm, quá trình bốc hơi bề mặt đất và sự thoát hơi nước của thực vật
gia tăng. Tỷ lệ bay hơi khác nhau rất nhiều, tùy thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm
tương đối. Sự ấm lên toàn cầu với sự gia tăng nhiệt độ sẽ tác động mạnh mẽ đến
quá trình thoát hơi bề mặt, khô hạn sẽ kéo dài và khắc nghiệt hơn vào mùa khô
trong khu vực. Nhiệt độ thay đổi kéo theo không khí ẩm, lượng mưa và lưu thông
không khí cũng thay đổi. Như vậy, toàn bộ hệ thống sẽ bị ảnh hưởng. Gia tăng
bốc hơi làm cho việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn tỉnh thêm trầm trọng trong
mùa khô.
c) Những hệ quả do tác động của biến đổi khí hậu đến lượng mưa và
bốc hơi tỉnh Sóc Trăng
- Tác động đến tài nguyên nước
Tài nguyên nước đang
đứng trước nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một tăng. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng
đến nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị. Sóc Trăng nằm ở hạ lưu
sông Hậu. So với hiện nay, năm 2070, dòng chảy năm của sông Mê Kông biến đổi từ
+4,2 đến -14,5%; dòng chảy mùa cạn từ -2,0 đến -24%; dòng chảy lũ biến động +5
đến +7,0%. Điều đó có nghĩa là khả năng lũ trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa
khô đều trở nên khắc nghiệt hơn (chưa tính đến khả năng khai thác nước ở thượng
nguồn các sông này tăng lên do BĐKH). Điều này gây ra một nghịch lý tại địa
phương là thừa nước vào mùa mưa và thiếu nước vào mùa khô.
Nguồn nước tưới phục
vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng phục thuộc trực tiếp vào
nguồn nước ngọt sông Hậu, nước mưa tại chỗ và nguồn nước dưới đất. Sự biến đổi
lượng mưa trong tương lai có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ lượng nước
phục vụ các mục đích dân sinh và kinh tế:
Nguồn nước mưa vốn
hạn chế trong mùa khô càng trầm trọng hơn, khiến cho nguồn nước cung cấp cho
dân sinh trong vùng gặp khó khăn. Một yếu tố nữa ảnh hưởng do lượng mưa thay
đổi là lượng nước ngầm tầng nông, sự hạn chế của lượng mưa trong mùa khô làm
thiếu hụt lượng nước bổ sung cho tầng nước nông, vốn cung cấp cho các hoạt động
dân sinh và sản xuất. Điều này càng gây áp lực cho tài nguyên nước trên địa bàn
tỉnh, đặc biệt tại vùng ven biển, sự sụt giảm lượng nước tầng nông kết hợp với
triều cường do quá trình xâm nhập mặn gia tăng làm cho nêm mặn xâm nhập vào
tầng nước nông gây nhiễm mặn, đe dọa nguồn nước ngọt vốn hạn chế tại vùng này.
- Tác động đến sức khỏe, xáo trộn quá trình sinh hoạt của
người dân trong tỉnh
Sự hạn chế mưa và
tăng độ bốc hơi trong không khí, gây nên tình trạng khô nóng kéo dài ảnh hưởng
đến sức khỏe người dân, đặc biệt là người già và trẻ em trong vùng. Quá trình
nắng nóng kết hợp với sự thiếu hụt nguồn nước sinh hoạt làm gia tăng các bệnh
trong mùa khô, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm qua đường nước.
II. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GÂY RA ĐỐI VỚI LƯU VỰC SÔNG
1. Biến đổi khí hậu và lưu vực sông
Biến đổi khí hậu làm
gia tăng nhiệt độ bề mặt có thể tác động đến các chu trình thủy văn của một hệ
thống lưu vực sông. Theo dự báo, biến đổi khí hậu có thể có những ảnh hưởng đến
lưu lượng dòng chảy, tải trọng trầm tích và chất dinh dưỡng (Nitơ và Phospho)
trong lưu vực sông. Biến đổi khí hậu cũng có những ảnh hưởng tới thời điểm và
quy mô của nước chảy tràn và số lượng trầm tích. Sự thay đổi có thể xảy ra đối
với dòng chảy có tầm quan trọng đến việc sử dụng nguồn nước, khối lượng nước và
hệ thống thủy sinh của một lưu vực sông. Những tác động tiềm tàng của sự thay
đổi bao gồm: sự thiếu hụt nguồn nước lên đỉnh điểm do nhu cầu tăng, gia tăng
phú dưỡng tiềm tàng và những tác động đến sự di cư của cá. Biến đổi khí hậu có tác
động tới lưu vực sông tại các hoạt động sau:
- Thay đổi mục đích
sử dụng đất.
- Xói mòn đất mãnh
liệt tại hầu hết diện tích lưu vực sông.
- Thay đổi hoạt động
dòng chảy của sông.
Hiện nay, lưu vực các dòng sông đang chịu áp
lực từ các hoạt động của con người làm suy giảm và biến đổi nguồn nước trên lưu
vực như: phá rừng, xây đô thị, đất công nghiệp làm suy giảm thảm phủ bề mặt gây
ra lũ lụt, trượt lở đất,.... Biến đổi khí hậu làm căng thẳng thêm tình trạng
suy thoái tại lưu vực sông. Những tác động đến lưu lượng dòng chảy bao gồm:
+ Biến đổi thể tích
và dòng chảy.
+ Gia tăng các thiên
tai lũ lụt và hạn hán thủy văn.
+ Làm tăng xói mòn
đất, trượt lở đất.
Ngoài những tác động đến lưu lượng
dòng chảy của sông, biến đổi khí hậu còn gây nên những tác động đến chất lượng
nước và nhu cầu sử dụng chúng:
+ Làm trầm trọng thêm ô nhiễm
nguồn nước (ấm lên, vi khuẩn, carbon hữu cơ, trầm tích, chất rắn lơ lửng).
+ Làm cho phí sử dụng nước căng
thẳng thêm do tăng nhu cầu từ dân số và kinh tế phát triển.
+ Dâng cao mực nước biển và gia
tăng nước mặn xâm nhập vào tầng nước ngầm.
2. Tác động của biến đổi khí hậu gây ra đối với lưu vực sông trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng
a) Biến đổi khí hậu tác động đến lưu vực sông tỉnh Sóc Trăng,
trước hết là ảnh hưởng từ lượng nước thượng nguồn sông Mekong
Tại khu vực đầu
nguồn sông Mekong, nơi có môi trường nhạy cảm về những thay đổi xảy ra, sẽ có
sự mở rộng của các vùng phát triển cho ngành công nghiệp và đô thị trong tương
lai, điều này sẽ có tác động đến số
lượng và chất lượng của các dòng chảy mặt của sông. Việc sử dụng đất có vai trò
tái tạo nguồn tài nguyên nước dự trữ như rừng phát triển đất công nghiệp và đô
thị hóa, trong khi đất nông nghiệp giảm xuống, gây ra suy giảm số lượng nước
dưới đất và tổng số lượng nước về vùng hạ lưu.
Nhiệt tăng sẽ gây ra
các biến thể của nhiệt độ và khí hậu, hạn hán và mưa lớn gây lũ lụt nhiều hơn
nữa. Mưa lớn lên sẽ gây ra sự gia tăng của số lượng nước mặt, ảnh hưởng tới
việc truyền tải các chất dinh dưỡng và trầm tích trong khu vực đầu nguồn, chuỗi
các chất dinh dưỡng, xói mòn và di dời các lớp trầm tích trên lưu vực xuống
dòng sông. Quá trình này ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng và chất lượng nước
vùng hạ lưu tỉnh Sóc Trăng.
Báo cáo đánh giá lần
4 của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) năm 2007 và tài liệu kỹ
thuật của IPCC về khí hậu và nước năm 2008 đã nhận định những thay đổi về thời
tiết ảnh hưởng đến nhiệt độ, lượng mưa và gió ở khía cạnh tần suất, cường độ,
quãng thời gian. Trong thời gian 20-30 năm tới, sự thay đổi của Mekong sẽ diễn
ra mạnh mẽ.
b) Biến đổi
khí hậu tác động đến lưu vực sông Hậu
Sông Hậu là con sông chính cung cấp nguồn nước ngọt và
phù sa bồi đắp cho đồng ruộng. Hệ thống sông Hậu chi phối sâu sắc đến chế độ
thủy văn của tỉnh. Chính vì vậy, tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên
nước trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có liên quan trực tiếp đến nguồn nước trên lưu
vực sông Hậu.
Sự gia tăng về nhiệt
độ, thay đổi lượng mưa và gió với tần suất, cường độ khác nhau do biến đổi khí
hậu có tác động lớn đến lưu vực sông Hậu. Dưới tác động của biến đổi khí hậu,
nhiệt độ không khí trong lưu vực sông chảy trở nên khô nóng hơn, làm gia tăng
bốc hơi và gia tăng nhu cầu sử dụng nước ở các khu vực trên lưu vực sông Mekong
vào mùa khô, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước sông Hậu. Khí hậu ấm hơn với sự gia tăng nhiệt độ do biến
đổi khí hậu, làm gia tăng nguy cơ lũ lụt và hạn hán. Lũ lụt phụ thuộc vào cường
độ mưa, khối lượng, thời gian, đặc điểm thủy văn và các lưu vực thoát nước.Hạn
hán xảy ra khi có lượng mưa dưới mức trung bình, những tác động của hạn hán đến
tình hình kinh tế xã hội trên lưu vực phát sinh từ tương tác giữa điều kiện tự
nhiên tại vùng và yếu tố con người, chẳng hạn như việc thay đổi mục đích sử
dụng đất tại tỉnh Sóc Trăng, nhu cầu sử dụng đất, nước, sử dụng nguồn nước quá
mức có thể làm trầm trọng thêm tác động của hạn hán.
-
Thay đổi lượng mưa trên lưu vực
Khí hậu ấm lên, làm
cho sự tăng lên của lượng mưa trong khí hậu ấm là rất dễ xảy ra. Điều này ảnh
hưởng đến lũ trên sông và ngập lụt tại khu vực đô thị. Từ đó, hệ thống thoát
nước tại địa phương phải được điều chỉnh đề phù hợp với cường độ này càng tăng
của lượng mưa do biến đổi khí hậu, chủ yếu vào mùa mưa. Tăng lượng mưa khu vực
đồng bằng sông Cửu Long kết hợp với nước lũ dâng cao từ thượng nguồn Mekong đổ
về làm gia tăng tình trạng ngập úng, nhất là tại các địa phương nội đồng tỉnh
Sóc Trăng. Theo dự báo, trong giai đoạn 2030 – 2040:
+ Lượng mưa đầu vụ Hè
Thu (15/4 – 15/5) sẽ giảm chừng 10 – 20% và có thể bắt đầu trễ hơn khoảng 2
tuần lễ so với hiện nay.
+ Vào tháng 9 – 10,
lượng mưa có khuynh hướng gia tăng hơn kết hợp với lũ thượng nguồn làm biên của
vùng ngập ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ gia tăng xuống vùng bán đảo Cà Mau (TS. Lê Anh Tuấn, Đại học Cần Thơ, năm 2009).
Vào mùa mưa, sự gia tăng lượng mưa vùng
thượng lưu sông Mekong kết hợp với mưa nội đồng làm gia tăng nguồn nước tại lưu
vực sông Hậu. Điều này làm gia tăng diện tích ngập úng trên lưu vực sông, khu
vực nội đồng tỉnh Sóc Trăng, quá trình tiêu thoát nước sẽ trở nên khó khăn hơn,
tăng quá trình xói lở bờ sông.
-
Tăng hạn hán tại lưu vực
Vào mùa khô (từ tháng
10 đến tháng 4 năm sau), quá trình tăng nhiệt độ, nâng cao quá trình bốc hơi,
lượng mưa mùa khô hạn chế làm tăng quá trình khô hạn bề mặt đất, theo dự báo
nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 1 – 20C,
mùa khô kéo dài sẽ gây ra tình trạng hạn hán nghiêm trọng hơn trong giai đoạn
năm 2020 – 2040.
Tháng 3 và 4 là hai tháng có dòng chảy cạn
nhất. Nguồn nước mùa kiệt hạn chế, xâm nhập mặn theo sông Mỹ Thanh, sông Hậu
vào sâu trong nội đồng, với tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng
càng làm trầm trọng thêm tình trạng nói trên, làm gia tăng tình trạng cạn kiệt
nguồn nước trên lưu vực sông Hậu và hệ thống kênh mương nội đồng. Gây khó khăn
cho công tác tưới nước trong nông nghiệp. Nhiễm mặn nguồn nước ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp tại các địa phương có hệ sinh thái nước ngọt vùng nội
đồng.
-
Nước biển dâng
Biến đổi khí hậu gây
ra hạn hán, cùng với nước biển dâng, dòng sông cạn kiệt là tác nhân đưa nước
mặn từ biển xâm nhập sâu vào đất liền, vào hạ lưu các sông Mỹ Thanh, sông Hậu.
III. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GÂY RA ĐỐI VỚI TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT, NƯỚCNGẦM
1. Nhận định chung tácđộng của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên nước
Projections of changes in total annual
precipitation indicate that increases are likely in the tropics and at high
latitudes, while decreases are likely in the sub-tropics, especially along its
poleward edge.Dự
báo những thay đổi trong tổng lượng mưa hàng năm chỉ ra rằng có thể sẽ tăng
trong vùng nhiệt đới và ở các vĩ độ cao, trong khi có khả năng giảm trong vùng
cận nhiệt đới, đặc biệt là dọc theo khu vực hướng về cực.Thus, latitudinal variation is likely to affect the
distribution of water resources. Nói chung, đã có một sự giảm xuống
trong lượng mưa từ 10° và 30°N từ những năm 1980 (IPCC, 2007). With the population of these sub-tropical regions
increasing, water resources are likely to become more stressed in these areas,
especially as climate change intensifies. Với dân số các vùng cận nhiệt
đới ngày càng tăng, tài nguyên nước có thể sẽ trở nên nhấn mạnh trong các lĩnh
vực, đặc biệt là khi khí hậu thay đổi mãnh liệt.
Hiệu ứng bất lợi của
khí hậu đối với hệ thống nước ngọt trầm trọng thêm tác động của những căng
thẳng khác, chẳng hạn như tăng dân số, thay đổi hoạt động kinh tế, thay đổi sử
dụng đất và đô thị hóa. Nhu cầu nước sẽ phát triển trong những thập kỷ tới, chủ
yếu do tăng dân số và kinh tế phát triển, những thay đổi lớn trong nhu cầu
nước tưới do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Tác động tổng thể của biến đổi
khí hậu đối với tài nguyên nước và hệ sinh thái nước ngọt là rõ ràng.
Vùng ven biển của Việt Nam bị đe dọa bởi
một số hiện tượng đầy thách thức như mực nước biển dâng, sóng dâng do bão, lũ
lụt và hạn hán.
Đến năm 2100, dự đoán
mực nước biển có thể tăng lên đến 1m do khí hậu ấm lên bởi khí thải nhà
kính. Nhiệt độ tăng cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lượng mưa tăng vào
thời điểm gió mùa mùa hè khi có nhiều trận bão nhiệt đới cường độ mạnh hơn, gây
ra ngập lụt trên diện rộng tại các vùng trũng ven biển của Đồng bằng Sông Cửu
Long. Mực nước biển tăng thường xuyên cũng sẽ làm tăng tình trạng nhiễm mặn của
các dòng sông và nguồn nước ngầm.
Cộng đồng dân cư
nghèo phụ thuộc và kiếm sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn lợi thủy sản
ven biển và đất canh tác nông nghiệp ở các vùng thấp sẽ chịu tác động mạnh mẽ
nhất. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m, 43.7% diện tích tỉnh Sóc
Trăng sẽ bị ngập nước. Việc này sẽ tác động đến hơn 450.000 người,
tương đương 35% tổng dân số của tỉnh Sóc Trăng (ICEM 2008).
Có
bốn yếu tố chính của tình tiết tăng nặng khan hiếm nước theo quy định của IPCC
(Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi
Khí hậu): tăng dân số, tăng quá trình đô thị hóa, tiêu thụ nước
mức độ cao và Climate change will shrink the
resources of freshwater.biến đổi khí hậu sẽ giảm các nguồn tài nguyên
nước ngọt. Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những thách thức cho
tài nguyên môi trường tỉnh Sóc Trăng, đặc biệt là tài nguyên nước mặt
và nước dưới đất.
Đánh giá những tác động của biến đổi khí hậu là thách thức
bởi vì tài nguyên nước hiện có trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, chất lượng
nguồn nước và dòng chảy rất nhạy cảm với những thay đổi trong các yếu tố
nhiệt độ và lượng mưa. Quan trọng khác bao gồm tăng nhu cầu về nước do tăng dân
số, thay đổi trong nền kinh tế, phát triển công nghệ mới, thay đổi về đặc điểm
và việc quản lý nước đầu nguồn quyết định. Ở đây, chỉ xét trên các yếu
tố tự nhiên do biến đổi khí hậu gây ra đối với tỉnh Sóc Trăng.
2. Tác động đối với tài nguyên nước do biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn tài nguyên nước tỉnh Sóc Trăng. Nguồn
nước mặt khan hiếm trong mùa khô gây hạn hán, và quá dư thừa trong mùa mưa gây
ngập úng. Nguồn nước ngầm bị suy giảm dẫn đến cạn kiệt do khai thác quá mức và
thiếu nguồn bổ sung.
a) Các yếu tố tác động đến tài nguyên nước tỉnh Sóc
Trăng do biến đổi khí hậu
Các tính toán phân
tích thống kê cho thấy mực nước trên dòng chính sông Tiền và sông Hậu phụ thuộc
cơ bản vào hai yếu tố: thủy triều biển Đông và mực nước thượng lưu sông Mekong.
Sông Hậu là nguồn nước ngọt chính cung cấp nước cho các hoạt động phát triển
kinh tế cũng như nước sinh hoạt cho tỉnh Sóc Trăng, Chế độ thủy văn sông Hậu
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của lưu lượng thượng nguồn và thủy triều biển Đông, do
đó cạn kiệt nguồn nước sông thượng nguồn tác động trực tiếp đến
nguồn nước ngọt trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
v
Các yếu tố thời tiết (nhiệt độ, lượng mưa,
chu trình thủy văn)
- Nhiệt độ: gia tăng nhiệt độ
không khí trong thời gian tới làm quá trình bốc hơi bề mặt tăng nhanh
hơn. Nguồn nước bề mặt tại các sông, kênh rạch và bề mặt đất bị
bốc hơi nhanh, ảnh hưởng đến sự suy giảm nguồn nước mặt và ngay cả
nước dưới đất.
Nhiệt
độ trong không khí tăng kết hợp độ ẩm tương đối thấp, có tác động đến
lượng nước có sẵn để bổ sung nguồn cung cấp nước ngầm.The combination of shorter duration but more intense
rainfall (meaning more runoff and less infiltration) combined with increased
evapotranspiration (the sum of evaporation and plant transpiration from the
earth's land surface to atmosphere) and increased irrigation is expected to
lead to groundwater depletion (Konikow and Kendy 2005). Kết hợp với bốc
hơi nước tăng và nhu cầu thủy lợi tăng dự kiến sẽ dẫn đến sự suy giảm nguồn
nước ngầm.
- Lượng mưa đóng vai trò quan
trọng trong việc sử dụng nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt
tại tỉnh Sóc Trăng. Sự biến đổi lượng mưa trong tương lai, đặc biệt
là mưa bất thường vào mùa mưa và giảm lượng mưa trong mùa khô ảnh
hưởng đến các mục đích sử dụng nguồn nước trên địa bàn tỉnh, là
nguyên nhân chính gây xâm nhập mặn mở rộn trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Đồng thời, lượng mưa cũng là nguồn cung cấp bổ sung cho nguồn nước
dưới đất tại tỉnh Sóc Trăng. Cùng với nhiệt độ, lương mưa thấp có
thể gây ra hạn hán trên diện rộng.
- Chu trình thủy văn: việc thay
đổi chế độ thủy văn trong tương lai đều dẫn đến các hiện tượng bất
thường về thời tiết, điều này chi phối lượng mưa trong lưu vực sông
Mekong, qua đó nguồn nước vùng hạ lưu ảnh hưởng theo.
v
Xâm nhập mặn và triều cường
Tài nguyên nước và chế độ dòng
chảy trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng bị chi phối chủ yếu bởi nguồn nước
sông Hậu và thủy triều biển Đông. Sự chi phối này gây ra những khó
khăn trong việc sử dụng nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt,
đặc biệt là vào mùa khô khi lưu lượng dòng chảy kiệt trên sông Hậu
ít kết hợp với triều cường mạnh ở biển Đông và gió chướng làm cho
quá trình xâm nhập mặn tiến sâu vào nội đồng. Nguồn nước (nước mặt
và nước ngầm) bị nhiễm mặn gây ra quá trình thiếu nước sinh hoạt cho
dân cư vùng ven biển, nước tưới cho hóa màu vào mùa khô hạn.
Thực tế tại tỉnh đã cho thấy, do ảnh hưởng của hiện tượng
biến đổi khí hậu, quá trình xâm nhập mặn vào lục địa diễn ra ngày càng nghiêm
trọng hơn. Cuối tháng 2 năm 2010, độ mặn đo được tại cảng Trần Đề (xã Trung
Bình, huyện Long Phú) là 22,9 ‰, tại Đại Ngãi (huyện Long Phú) 3 ‰, tại xã
Thạnh Phú (huyện Mỹ Xuyên) 4,6‰, tại TP Sóc Trăng là 2,3 ‰. Cao gấp từ 2 đến 10
lần so với cùng kỳ năm 2009 và sâu vào đất liền có nơi đã đến 30km. Nước mặn
xâm nhập mạnh chủ yếu theo sông Hậu và sông Mỹ Thanh.
Ủy ban Liên chính
phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cho rằng nhiệt độ, lượng mưa và dòng chảy hàng
năm sẽ tăng cũng như mực nước biển sẽ dâng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đồng
bằng sông Cửu Long. Dự báo cho thấy khoảng 30% toàn vùng Đồng bằng sông Cửu
Long sẽ bị ngập trong nước biển nếu mực nước biển tăng lên 1m vào khoảng năm
2100. Mực nước biển trung bình dâng cao, nhất là mực nước đỉnh triều
sẽ làm cho những vùng trũng ngập và đẩy nước mặn từ biển vào sâu
trong đất liền. Xâm nhập mặn gia tăng, hạn hán kéo dài trong thời gian
tới sẽ tác động mạnh mẽ tới tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng.
v
Suy giảm tài nguyên nước mặt
Biến
đổi khí hậu gây ra những hiện tượng thời tiết bất thường gây tác
động đến tài nguyên nước tỉnh Sóc Trăng trong đó hạn hán và xâm nhập
mặn là 2 quá trình có ảnh hưởng hơn cả.
Sự phân bố của lượng mưa trong không gian và
thời gian là rất không đồng đều, dẫn đến biến đổi to lớn về tài nguyên nước
trên toàn khu vực, trong đó có tỉnh Sóc Trăng. Hiện nay, lượng mưa trung
bình hàng năm khá cao 1800- 2200 mm, nhưng chênh lệch lớn theo mùa. Mùa mưa
chiếm 86- 88% tổng lượng mưa hàng năm, lượng mưa trung bình tháng cao nhất trên
350 mm, tháng thấp nhất hầu như không có mưa. Độ ẩm trung bình cả năm 83,4%,
cao nhất 96% vào mùa mưa và thấp nhất 62% vào mùa khô. Tình trạng mùa khô
không có mưa hoặc lượng mưa rất thấp sẽ gia tăng trong thời gian tới dẫn đến
tình trạng thiếu nước nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Hạn hán có thể được
thể hiện trong việc thâm hụt lượng mưa, độ ẩm đất thâm hụt, thiếu dòng chảy
trong một dòng sông, mức nước ngầm thấp, hoặc cấp hồ chứa thấp. Higher temperatures, particularly in the summer, earlier
snowmelt, and potential decreases in summer precipitation could increase risk
of drought.Nhiệt
độ cao hơn, đặc biệt là trong mùa hè, giảm tiềm năng về lượng mưa mùa hè có thể
làm tăng nguy cơ hạn hán.The frequency and
intensity of floods and droughts could increase, even in the same areas.
Tần suất và cường độ của hạn hán có thể tăng, ngay cả trong cùng một khu vực.
Điều này gây hạ thấp mực nước sông Hậu đầu nguồn, nguồn nước mặt
trở nên hạn chế trong mùa khô, gây thiếu hụt nguồn nước trên địa bàn tỉnh
Sóc Trăng.
Sóc Trăng nằm ở hạ
lưu của sông Mêkong. So với hiện nay, đến năm 2070, dòng chảy năm của sông Mê
Kông biến đổi từ + 4,2 đến -14,5%; dòng chảy mùa cạn của sông của sông Mê
Kông biến đổi từ -2,0 đến -24%; dòng chảy lũ biến động +5 đến +7,0%. Như vậy,
trên sông Mêkong tác động của BĐKH làm cho dòng chảy năm của sông Cửu Long giảm
đi. Điều đó có nghĩa là khả năng lũ trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa khô đều
trở nên khắc nghiệt hơn (chưa tính đến khả năng khai thác nước ở thượng nguồn
các sông này tăng lên do BĐKH).
Hình: Xây đập ngăn nước vùng thượng lưu sông Mekong ảnh
hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước và xâm nhập mặn vùng đồng bằng
sông Cửu Long
Tình hình hạn hán
hiện nay và trong những năm tới khả năng hạn hán có thể cao hơn trong cùng điều
kiện nguồn nước do nhu cầu sử dụng nước cho nông nghiệp toàn lưu vực sông
Mekong tăng nhanh, nhất là vùng đông bắc Thái Lan và phía Campuchia hoặc rừng trên
lưu vực bị phá, việc xây đập ngăn nước vùng thượng lưu sông Mekong sẽ
tác động mạnh mẽ và quyết định đến nguồn nước và tình hình xâm
nhập mặn vùng hạ lưu. Tài nguyên nước đang đứng trước nguy cơ suy giảm do
hạn hán ngày một tăng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Khó khăn này sẽ ảnh
hưởng đến nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị tại tỉnh Sóc
Trăng.
Vùng ven biến và một
số vùng bên trong tỉnh Sóc trăng sẽ tiếp tục bị nước mặn xâm nhập ngày
càng sâu. Các vùng bị nhiễm mặn gần như không canh tác nông nghiệp được. Tình
hình cung cấp nước ngọt sẽ rất khó khăn. Người dân sẽ gặp nhiều khó khăn
trong sử dụng nguồn nước.
v
Hạ thấp mực nước ngầm
Hiện nay, do nguồn
nước mặt bị ô nhiễm và nhiễm mặn nên hầu hết người dân tại tỉnh Sóc Trăng đều
khai thác nước ngầm sử dụng. Trên toàn tỉnh theo ước tính có khoảng trên 75.000
giếng nước ngầm đang được khai thác sử dụng, trong đó có trên 59 ngàn giếng là
do người dân tự ý khai thác, kế đến là các công trình do Nhà nước và Quốc tế
tài trợ khoan giếng cho người dân với hơn 16.000 điểm. Nguồn nước ngầm tại tỉnh
đang được khai thác một cách tràn lan (từ đầu những năm 1990-1995), thiếu thiết
kế, quy hoạch hợp lý dẫn đến sự suy giảm mực nước ngầm trên toàn tỉnh, nghiêm
trọng nhất là mạch nước ngầm tại huyện 3 huyện ven biển như Mỹ Xuyên, Long Phú,
Vĩnh Châu (dọc theo đường Nam Sông Hậu qua huyện Vĩnh Châu có hơn 2.000 giếng
nước ngầm). Nguồn nước ngầm ngoài mục đích khai thác sử dụng cho sinh hoạt còn
được người dân khai thác sử dụng phục vụ cho mục đích sản xuất công nghiệp
(chiếm đa số với hơn 13 triệu m3/ngđ), nông nghiệp (trồng Hành, Cải
tại Vĩnh Châu), nuôi trồng thủy sản.
Việc khai thác nước ngầm với số lượng lớn như trên đã dẫn
đến tình trạng sụt giảm mạch nước ngầm của tỉnh, giảm áp lực nước. Điều này làm
gia tăng khả năng thẩm thấu, xâm nhập nước mặn từ bên ngoài vào các tầng rỗng,
gây ra hiện tượng nhiễm mặn tầng nước ngầm. Theo kết quả nghiên cứu động thái
nước, bình quân mỗi năm mực nước ngầm của Sóc Trăng giảm từ 0,5 – 1 m ở tầng
90, giảm từ 3 – 4 m ở tầng nước sâu hơn.
Trong thời gian tới
do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, các yếu tố gây ảnh hưởng đến mực nước
ngầm là sự biến đổi lượng mưa, nước biển dâng và gia tăng nhiệt độ tại
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các yếu tố này ảnh hưởng đến nước
ngầm tầng nông là chủ yếu. Trong khi, nước ngầm tầng sâu chịu sự tác
động của quá trình khai thác quá mức bởi hoạt động của con người.
Biến đổi về lượng
mưa cao do tác động của biến đổi khí hậu sẽ làm gia tăng áp lực đối với
nguồn tài nguyên nước dưới đất. Nhu
cầu nước ngầm có khả năng tăng trong tương lai, lý do chính là tăng cường sử
dụng nước trên địa bàn toàn tỉnh Sóc Trăng. Một lý do nữa có thể là
việc bù đắp nguồn mặt nước đang suy giảm do biến đổi lượng mưa vào mùa khô
nói chung. Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến lưu lượng bổ sung
nước ngầm, nghĩa là, nguồn nước ngầm tái tạo, trong nhiều tầng chứa nước có
thể lượng nước mặt bổ sung nguồn nước dưới đất vào mùa mưa với
việc gia tăng tần suất và cường độ của lượng mưa và giảm bổ sung vào
mùa khô.
Sự suy giảm của
lượng nước ngầm bổ sung sẽ làm trầm trọng thêm tác động của mực nước biển
tăng lên. For coastal populations, water quality is likely to be
affected by salinization, or increased quantities of salt in water supplies.Đối
với các giếng khoan của người dân ven biển, chất lượng nước có thể sẽ bị ảnh
hưởng của xâm nhập mặn, hoặc tăng hàm lượng muối trong nguồn nước.This will result from a rise in sea levels, which will
increase salt concentrations in groundwater and estuaries. Cùng với
nhu cầu nước đang tăng lên thì sự tăng mực nước biển trong thời gian tới
sẽ làm tăng hàm lượng muối trong nước ngầm tầng nông.Sea-level rise will not only extend areas of salinity,
but will also decrease freshwater availability in coastal areas. Ngoài
ra, sự nóng lên làm tăng tốc tỷ lệ bề mặt khô, để lại ít nước di chuyển trong
lớp gần bề mặt của đất. Less soil moisture leads
to reduced downward movement of water and so less replenishment of groundwater
supplies (Nearing et al 2005). Ít độ ẩm đất dẫn đến phong trào giảm
nguồn nước bổ sung nước ngầm tầng nông. Trong nội địa, tầng chứa nước giảm quá trình bổ
sung trong nước ngầm có thể dẫn đến xâm nhập mặn của nước lân cận tầng chứa
nước mặn, đặc biệt là các khu vực ven biển các huyện Vĩnh Châu, Long
Phú và huyện Cù Lao Dung và tăng quá trình thoát hơi nước tại các khu
vực khô hạn có thể dẫn đến tăng tính mặn của tầng chứa nước nông.
Xem thêm tại đây... => iDiaLy.com - Tất cả bài đăng chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu có thắc mắc hay có tài liệu hay liên quan đến Địa Lý thì comment cho cả nhà cùng tham khảo nhé.... Sưu tầm bởi www.NguyenDucHanh.net