HLT.vn - iDiaLy.com - DiaLy.edu.vn

CÁC CÂU HỎI ĐÁP VỀ ĐỊA LÍ THẾ GIỚI

CÁC CÂU HỎI ĐÁP VỀ ĐỊA LÍ THẾ GIỚI



Câu 1: HỎI: Khí hậu Địa Trung Hải có những đặc điểm gì? Những nơi nào trên thế giới có loại khí hậu này?
ĐÁP: Địa Trung Hải là một biển lớn thuộc Đại Tây Dương nằm ở vị trí trung gian giữa 3 lục địa Á, Âu và Phi. Địa Trung Hải nối thông với Đại Tây Dương ở phía tây qua eo biển Gibranta và với Ấn Độ Dương qua kênh đào Xuyê và Hồng Hải. Địa Trung Hải nằm giữa các vĩ tuyến 300B và 460B, giữa các kinh tuyến 60T và 360Đ. Vị trí của biển này như vậy là nằm ở giữa đới cao áp cận nhiệt và đới gió Tây ôn đới.
Loại khí hậu ở đây có đặc điểm là: mùa đông ấm áp nhiều mưa, còn mùa hạ nóng nực và khô khan, trời luôn luôn trong xanh, nhiều nắng.
Trên thế giới, những vùng nằm ở bờ tây lục địa có vĩ độ tương tự như vĩ độ của Địa Trung Hải đều có loại khí hậu này, gọi chung là khí hậu Địa Trung Hải. Đó là các vùng: duyên hải Caliphoócnia ở Bắc Mĩ, vùng Trung bộ Chilê ở Nam Mĩ, vùng cực Nam của Nam Phi và vùng Nam lục địa Ôxtrâylia v.v…
Tổng diện tích của các vùng có khí hậu Địa Trung Hải trên thế giới chiếm khoảng 1,7% diện tích các lục địa.
Câu 2 : HỎI: Trên Trái Đất nơi nào nóng nhất, nơi nào lạnh nhất?
ĐÁP: Để trả lời câu hỏi này có hai cách:
1. Nơi nóng (hoặc lạnh) nhất trên Trái Đất là nơi có nhiệt độ trung bình năm cao (hoặc thấp) nhất.
2. Nơi nóng (hoặc lạnh) nhất trên Trái Đất là nơi đã ghi được nhiệt độ tức thời cao (hoặc thấp) nhất.
Mỗi cách trả lời có ý nghĩa khác nhau. Nếu kể về nhiệt độ trung bình năm thì nơi nóng nhất là phía bắc hoang mạc Xahara ở châu Phi. Nhiệt độ trung bình năm ở đây là gần 300C. Ở những hoang mạc khác như Gôbi, Caracum (Trung Á), Calahari (Nam Phi), Atacama (Nam Mĩ) v.v…nhiệt độ trung bình năm ít khi vượt quá 27 – 280C. Tuy nhiên, về mùa hạ, nhiệt độ ở các hoang mạc lại rất cao. Trên các hoang mạc ở Trung Á mặt cát nóng tới 72 – 780C. Trên các hoang mạc Xahara, Aráp, Iran nhiệt độ mặt cát có thể lên tới 800C, còn nhiệt độ không khí đến trên 500C.
Ngày 10 tháng 7 năm 1913, người ta đo được ở thung lũng “Thần Chết” (thuộc bang Caliphoócnia – Hoa Kì), nhiệt độ không khí ban ngày lên tới 56,70C. Thời đó, người ta cho đây là nơi nóng nhất địa cầu.
Tên thung lũng “Thần Chết” có nguyên nhân của nó. Vào thế kỉ XIX, một nhóm gồm 49 kẻ phiêu lưu đã tới nơi này tìm vàng. Sau khi vượt qua mấy dãy núi, họ xuống đến một thung lũng có núi cao bao bọc xung quanh. Mọi người loá mắt bởi lớp muối trắng như tuyết, những cồn cát vàng và những tảng đá đỏ thắm. Mặt Trời thiêu đốt, nóng không sao chịu nổi. Đoàn người bị khát, chân tay rã rời. Khi họ tìm tới được một dòng sông thì lòng sông đã khô cạn, chỉ còn vài vũng nước mặn chát, vì độ bốc hơi quá lớn. Hầu hết những người trong nhóm đã chết, chỉ có vài người sống sót. Từ đó, họ đặt tên cho thung lũng khủng khiếp đó là “Thần chết”. Thung lũng “Thần chết” nằm thấp hơn mực nước biển 85m. Nhiệt độ trung bình tháng 7 lên tới 390C, nhưng trong mùa đông, đôi khí giá lạnh, nước có thể đóng băng, ở đây một năm có tới 350 ngày trời quang. Trong khi đó, đằng sau dãy núi là bờ biển Thái Bình Dương, một trong những nơi mưa nhiều nhất Bắc Mĩ.
Nhưng sau đó, người ta lại phát hiện thấy một nơi khác ở Bắc Phi có nhiệt độ còn cao hơn. Ngày 13 tháng 9 năm 1922, ở cách thủ đô Tripôli của Libi 40 km về phía nam, người ta đã đo được nhiệt độ không khí lên tới 580C. đây mới là nơi nóng nhất địa cầu.
Những nơi lạnh nhất trên địa cầu cũng thường thấy ở các miền cận cực hoặc địa cực. Nơi có nhiệt độ trung bình năm thấp nhất ở nửa cầu Bắc là miền gần bờ biển phía tây bắc đảo Grơnlen (-20,40C), còn nhiệt độ thấp nhất tức thời ở đây chỉ đo được -650C (do đoàn thám hiểm Vêghêne quan sát được năm 1931).
Ở lục địa Nam Cực, nhiệt độ còn thấp hơn nữa. Theo tài liệu của đoàn thám hiểm Nga thì năm 1957, nhiệt độ thấp nhất đo được ở trạm Phương Đông là -870C, còn các nhà khoa học Nga cũng đã chứng minh là nhiệt độ trung bình năm ở đây còn thấp hơn nhiệt độ trên đảo Grơnlen.
Trước đây, người ta cũng đã coi thung lũng Ôimyacôn ở Xibia (LB Nga), là cực lạnh của trái đất. Nhiệt độ ở đây đã xuống tới -720C vào mùa đông năm 1933. Đó cũng là nơi lạnh nhất của nửa cầu Bắc. Tuy nhiên, Ôimyacôn chỉ lạnh về mùa đông, còn nhiệt độ trung bình năm vẫn cao hơn nhiều so với đảo Grơnlen.
Câu 3: HỎI: Đỉnh núi cao nhất thế giới ở trên dãy Himalaya là đỉnh Êvơrét hay Chômôlungma. Hai tên đó có phải chỉ cùng một đỉnh núi không?
ĐÁP: Đỉnh núi cao nhất trên dãy Himalaya theo tiếng địa phương (Tây Tạng) là Chômôlungma, có nghĩa là “Thánh mẫu”. Từ năm 1717, địa danh này đã được sử dụng trên bản đồ Tây Tạng do triều đình nhà Thanh cho biên vẽ và có sự tham gia của Lạt Ma. Đến năm 1852, cục Trắc địa của Ấn Độ, sau khi đo được độ cao của đỉnh núi đã đặt tên cho nó là Êvơrét để ghi nhớ công lao của Gioocgiơ Êvơrét, một người Anh đã từng làm Cực trưởng cục đo đạc ở Ấn Độ. Địa danh Êvơrét từ đó đã được dùng phổ biến trong các bản đồ thế giới. Thực ra, tên Chômôlungma đã có trước khi có tên Êvơrét.
Ngày 8-5-1952, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã ra thông báo cho sử dụng lại địa danh cũ là Chômôlungma thay cho địa danh Êvơrét trong các sách, báo và văn kiện chính thức.
Câu 4: HỎI: Sông Nin ở châu Phi được hình thành từ hai nguồn nước: Nin Trắng và Nin Xanh. Nin Trắng dài hơn Nin Xanh nhiều. Tại sao lại nói rằng lượng nước cung cấp cho sông Nin lại chủ yếu do sông Nin Xanh?
ĐÁP: Sông Nin ở châu Phi là sông dài nhất thế giới (6671km) chiều dài đó chủ yếu là tính từ nguồn của sông Nin Trắng. Nếu tính từ nguồn của sông Nin Xanh thì chiều dài của nó chỉ vào khoảng trên dưới 4000km, thua xa chiều dài của nhiều sông khác trên thế giới như: Amadôn (6400km), Mixixipi (6019km), Trường Giang (5800km) v.v…Cho nên, đúng là sông Nin Trắng dài hơn sông Nin Xanh nhiều.
Sông Nin Trắng phát nguyên từ vùng cao nguyên ẩm ướt ở phía đông Trung Phi. Thượng nguồn là sông Caghera ở phía đông bắc hồ Tanganica (phía nam đường xích đạo) chảy vào hồ Vichtôria, nối sang hồ Kiaga, hồ Môbôtu Xexe Xelô rồi chảy lên phía bắc thành sông Nin Trắng. Vùng cao nguyên này nằm ở miền xích đới cho nên có lượng mưa phong phú quanh năm, trung bình từ 1200mm đến 1300mm. Tháng khô hạn nhất cũng có trung bình từ 50mm đến 60mm nước. Trong hai mùa xuân và thu, lượng mưa cao nhất vì lúc này ánh sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc trên xích đạo. Tuy nhiên, sự sai biệt về lượng mưa giữa các tháng trong năm không có ảnh hưởng lớn đến thuỷ chế của sông, vì hồ Vichtôria có vai trò điều tiết nước rất lớn.
Sau khi ra khỏi hồ Môbôtu Xexe Xelô sông Nin Trắng chảy qua một vùng đất bằng phẳng, lòng sông nâng lên đột ngột, nước tràn ra ngoài, tạo thành một vùng ngập nước. Chính vì lý do này mà sau khi ra khỏi vùng hồ, lượng nước của sông Nin Trắng đã giảm đi mất một nửa.
Sông Nin Xanh phát nguyên từ hồ Tana trên cao nguyên Abixini chảy về phía đông nam, lúc đầu là sông Apbai, sau đó khi chảy lên phía bắc trở thành sông Nin Xanh. Cao nguyên Abixini là vùng có mưa nhiều nhất châu Phi về mùa hạ. Trung bình lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 9 chiếm 75% lượng mưa toàn năm. Từ tháng 7 đến tháng 9 là thời kì nước lớn của sông Nin Xanh.
Ở Khactum, lượng nước lớn chảy trong một ngay đêm của sông Nin Xanh vào mùa này lớn gấp 4 lần lượng nước chảy của sông Nin Trắng trong một ngày đêm vào thời kì nước lớn nhất.
Chính vì vậy, ở đoạn sông từ Khactum (nơi hội lưu của hai sông Nin Trắng và Xanh) về xuôi, thời kì nước to của sông Nin phụ thuộc vào lượng nước của sông Nin Xanh.
Theo thống kê thì mỗi năm lượng nước của sông Nin ở Ai Cập nhận được từ sông Nin Xanh 57% từ sông Nin Trắng 29%, 14% còn lại là do sông Atbara cung cấp. Tuy nhiên, lượng nước cung cấp đó không như nhau trong các mùa. Ở Atxuan, vào tháng 9, trong một ngày đêm lượng nước do sông Nin Trắng cung cấp là 10%, do sông Nin Xanh cung cấp là 68%, do sông Atbara cung cấp là 22%. Nhưng vào tháng 5, cũng trong một ngày đêm, lượng nước do sông Nin Trắng cung cấp lại là 83%, do sông Nin Xanh cung cấp chỉ còn 17%, còn sông Atbara thì cạn khô không có một giọt nước nào.
Như vậy có thể rút ra kết luận: Nếu vai trò của sông Nin Xanh là cung cấp cho sông Nin một lượng nước rất lớn, thì sông Nin Trắng lại có vai trò điều tiết lượng nước, làm cho sông này quanh năm lúc nào cũng có nước chảy.
Câu 5: HỎI: Tại sao quần đảo Haoai nằm ở giữa Thái Bình Dương lại là một bang thuộc lãnh thổ Hoa Kì? Bang này được sáp nhập vào liên bang từ bao giờ?
ĐÁP: Quần đảo Haoai là một trong nhiều quần đảo thuộc Thái Bình Dương, nằm giữa các vĩ độ 180 – 250B và các kinh độ 1540 – 1700T. Hầu hết các đảo lớn ở đây đều là đảo núi lửa. Tổng diện tích vào khoảng 16600km2. Đảo lớn nhất là đảo Haoai có diện tích 10400km2. Trên đảo này có hai núi lửa lớn là Maona Kêa (4205m) và Maona Loa (4100m). Đảo lớn thứ hai là đảo Maoy, nằm ở phía tây bắc đảo Haoai, rộng 1880km2. Ngoài ra, hai đảo khác cũng có diện tích tương đối lớn nữa là đảo Oahu và đảo Caoai. Thủ phủ Hônôlulu và quân cảng lớn Piec Hacbo (cảng Trân Châu) đều nằm trên đảo Oahu.
Có thể nói quần đảo Haoai có vị trí trung gian giữa 3 châu lục Á, Mĩ và Ôxtrâylia. Khoảng cách từ Hônôlulu đến các cảng Xan Phranxixcô (Hoa Kì) hay đến Iôcôhama (Nhật) hoặc Brixban (Ôxtrâylia) đều vào khoảng trên dưới 7000 km.
Dân cư trên quần đảo vốn là người Pôlinêdi. Cho đến những năm cuối cuối của thế kỉ XVIII, họ vẫn sống gần như biệt lập, chủ yếu dựa vào nghề nông và đánh cá.
Vào thế kỉ XVI, tuy các thuỷ thủ Tây Ban Nha đã đặt chân lên quần đảo này, nhưng vì trên đảo không có vàng, bạc và các tài nguyên quý giá đối với họ lúc bấy giờ, nên họ đã bỏ đi. Đến cuối thế kỉ XVIII, quần đảo lại một lần nữa được phát hiện do nhà hàng hải người Anh: Giêm Cúc.
Từ 1784 trở đi, khi người Mĩ bắt đầu có sự trao đổi, buôn bán với Trung Quốcũng phatvề lông vũ da thú thì quần đảo Haoai trở thành trạm trung chuyển hàng hoá của các thương nhân Hoa Kì. Họ cũng phat hiện thấy ở đây có nhiều rừng gỗ trầm hương quý giá nên đã tích cực khai thác. Đến cuối thế kỉ XIX thì các rừng gỗ trầm trên quần đảo đã cạn kiệt.
Năm 1820, Hoa Kì lập đoàn đại diện thường trú ở Haoai để trông coi thương vụ và hàng hải. Theo chân họ là các giáo sĩ và thực dân.
Năm 1893 một nhóm thực dân đã nhúng tay vào việc lật đổ quốc vương bản xứ và thành lập nước Cộng hoà Haoai. Năm năm sau thì Hoa Kì tuyên bố quần đảo Haoai là của Hoa Kì.
Năm 1906, Hoa Kì xây dựng Trân Châu cảng, một căn cứ hải quân lớn ở Thái Bình Dương. Căn cứ này đã bị thiệt hại nghiêm trọng trong trận đánh phá bằng không quân và hải quân của Nhật trong Đại chiến thế giới II vào tháng 12 – 1941.
Từ sau khi thuộc về Hoa Kì, quần đảo Haoai trở thành nơi sản xuất 3 loại nông sản nhiệt đới quan trọng là mía, dứa và cà phê.
Khi Giêm Cúc phát hiện ra quần đảo Haoai, số dân bản xứ ở đây có khoảng 40 vạn người. trong lần điều tr thứ nhất vào năm 1832, số đó chỉ còn 13 vạn. Đến năm 1940, theo số thống kê thì người Pôlinêdi thuần chủng chỉ còn 1,4 vạn, người lai chiếm 5 vạn. Việc phát triển các đồn điền trồng cây công nghiệp đã thu hút một nguồn nhân lực khá lớn di cư tới. Theo thống kê thì năm 1948, trên quần đảo Haoai có tổng cộng 54 vạn người. Trong đó có 17,6 vạn người Nhật, 5,4 vạn người Philipin, 3 vạn người Trung Quốc, 0,7 vạn người Triều Tiên và một số người Pooctô ricô. Năm 1990 dân số trên quần đảo đã lên đến 96,5 vạn người, đa số là người lai.
Quần đảo Haoai cũng trở thành ban thứ 50 của Hoa Kì kể từ năm 1959.
Câu 6: HỎI: Kênh đào Xuyê ở Ai Cập được đào từ bao giờ và giá trị của nó như thế nào?
ĐÁP: Kênh đào Xuyê được xây dựng trên một eo đất ở Ai Cập, nằm giữa Địa Trung Hải và Hồng Hải. Toàn bộ chiều dài kênh đào từ cảng PoXait trên bờ Địa Trung Hải đến cảng Xuyê trên bờ Hồng Hải là 166 km, chiều rộng từ 80 đến 135m.
Kênh đào do một công ti hỗn hợp của tư bản Anh, Pháp và Hà Lan bỏ vốn. Công trình được tiến hành bắt đầu từ năm 1859, đến năm 1869 mới hoàn thành. Người đảm nhiệm thiết kế và xây dựng là kĩ sư Phecđinăng đờ Letxep, một nhà quý tộc người Pháp.
Từ sau khi kênh đào được đưa vào sử dụng, con đường giao thông vận tải, buôn bán giữa châu Âu và châu Á đã thuận tiện hơn nhiều. Từ Luân Đôn đi Ấn Độ, trước kia phải vòng qua mũi Hảo Vọng ở châu Phi, nay qua kênh đào Xuyê đã rút ngắn được 24 ngày. Từ Mácxây (Pháp) đi Bombay giảm được già nửa đường.
Năm 1882, hải quân Anh đã độc chiếm và đóng quân trên vùng đất kênh đào Xuyê, buộc Ai Cập phải cho Anh thuê vùng đất này trong 99 năm để phục vụ cho mục đích củng cố các thuộc địa và buôn bán với các nước châu Á. Sau khi giành độc lập, Ai Cập đã tiến hành quốc hữu hoá kênh đào vào năm 1956. Việc này đã dẫn tới một cuộc xung đột có tính quốc tế giữa Ixraen, Anh, Pháp và sự can thiệp của Liên Xô (trước đây), Hoa Kì và Liên hiệp quốc. Tiếp sau đó, do cuộc chiến tranh ở Trung Đông, kênh đào lại bị thiệt hại và đóng cửa để sửa chữa không cho tàu bè qua lại từ năm 1967 đến năm 1975.
Từ khi kênh đào Xuyê được khai thông, nó đã có vai trò rất tích cực đối với sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu. Dựa theo số liệu thống kê, riêng năm 1950, sau Đại chiến thế giới II kết thức, số tàu bè qua lại trên kênh Xuyê là 11750 chiếc, trong đó đa số là tàu của Anh. Trong số 82 triệu tấn hàng hoá được chuyên chở, thì trên 70 triệu tấn là hàng đi từ Hồng Hải vào Địa Trung Hải. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, sau chiến tranh thế giới II, các nước Tây Âu đã dựa chủ yếu vào các nguồn tài nguyên to lớn của các thuộc địa để khôi phục và phát triển nền kinh tế đã bị kiệt quệ của mình.
Câu 7: HỎI: Kênh đào Panama được khai thông từ bao giờ và giá trị của nó?
ĐÁP: Nằm ở nửa cầu Tây, giữa lục địa Bắc Mĩ và Nam Mĩ là một eo đất hẹp ngăn cách Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương đều phải vòng qua cực Nam của Nam Mĩ, đi qua eo Magienlan nếu không muốn đi theo một con đường dài hơn là vượt qua cực Nam châu Phi và Ấn Độ Dương.
Từ khi kênh đào Panama được khai thông, con đường biển nối bất cứ hải cảng nào trên bờ Đại Tây Dương với các cảng trên bờ Thái Bình Dương cũng đều rút ngắn được một nửa.
Dự án đầu tiên về kênh đào Panama cũng do Phecđinăng đờ Letxep, người đã hoàn thành kênh đào Xuyê vào năm 1869 đề ra. Năm 1879, công ti kênh đào Panama được thành lập do các nhà tư bản Pháp bỏ vốn. Năm 1880, công trình được bắt đầu tiến hành. Tuy nhiên, do những mâu thuẫn và tiêu cực nội bộ, cho nên 9 năm sau công ti kênh đào Panama phải giải tán. Lúc đó, kênh đào mới chỉ hoàn thành được một đoạn nhỏ.
Đến năm 1894, các nhà tư bản Pháp lại lập lại công ti mới và muốn tiếp tục công trình bỏ dở.
Lúc này Hoa Kì đang mở rộng lãnh thổ và củng cố vị trí ở Trung Mĩ đã dùng mọi thủ đoạn để mua lại công ti này và buộc chủ nhân của mảnh đất có kênh đào đi qua (lúc đó là chính phủ Colômbia) thông qua những điều ước bất bình đẳng. Nhưng chính phủ Côlômbia không chịu khuất phục. Hoa kì đã đạo diễn và giúp đỡ cho cuộc khởi nghĩa của nhân dân Panama thành công. Năm 1903, nước cộng hoà Panama với 40 vạn dân ra đời. Chính phủ mới đã kí với Hoa Kì điều ước cho thuê vĩnh viễn dải đất có kênh đào đi qua, hai bên bờ kênh mỗi bên rộng 16 km.
Năm 1904, Hoa Kì tiếp tục công trình bỏ dở và 11 năm sau, năm 1915 kênh đào Panama đã hoàn thành.
Tổng cộng chiều dài của kênh đào là 79,6 km, chiều rộng là 100m, được chia làm 6 đoạn. Mỗi đoạn có một cửa đập. Vì mực nước trong kênh đào không ngang bằng với mực nước trong đại dương, nên mỗi khi tàu bè qua lại, phải sử dụng một hệ thống bơm nước phối hợp với việc mở đóng các cửa đập.
Như vậy là việc khai thông kênh đào Panama, từ lúc bắt đầu khởi công cho đến khi hoàn thành phải mất 35 năm (1880 – 1915). Khả năng của kênh đào mỗi năm có thể cho qua từ 15000 đến 17000 tàu với trọng tải tổng cộng trên 80 triệu tấn.
Kênh đào Panama đã góp phần tăng cường việc giao lưu mậu dịch quốc tế, nhưng đồng thời cũng trong nhiều năm qua cũng đã phục vụ đắc lực cho nhiều mưu đồ quân sự của Mĩ.
Năm 1979 việc quản lí kênh đào đã được trả lại cho chính quyền Panama, nhưng Hoa Kì vẫn còn giữ lại các căn cứ quân sự trên một diện tích đất rộng 1676km2.



Xem thêm tại đây... =>Tất cả bài đăng từ iDiaLy.com chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu có thắc mắc hay có tài liệu hay liên quan đến Địa Lý thì comment cho cả nhà cùng tham khảo nhé.... Sưu tầm bởi www.NguyenDucHanh.net
Tài liệu tham khảo Tin tức
Lên đầu trang