HLT.vn - iDiaLy.com - DiaLy.edu.vn
Sóng thần
Admin: Tài trợ bởi: HLT.vn - Cung cấp cà phê và máy cà phê - 19/04/2016

Khái niệm Sóng thần:
Tiếng Nhật: 津波 tsunami là một loạt các đợt sóng tạo nên khi một thể tích lớn của nước đại dương bị chuyển dịch chớp nhoáng trên một quy mô lớn. Động đất cùng những dịch chuyển địa chất lớn bên trên hoặc bên dưới mặt nước, núi lửa phun và va chạm thiên thạch đều có khả năng gây ra sóng thần. Hậu quả tai hại của sóng thần có thể ở mức cực lớn.
Thuật ngữ tsunami (sóng thần) bắt nguồn từ tiếng Nhật có nghĩa "bến" (津 tsu, âm Hán Việt: "tân") và "sóng" (波 nami, "ba"). Thuật ngữ này do các ngư dân đặt ra dù lúc đó họ không biết nguyên do là sóng xuất phát ở ngoài xa khơi. Cơn sóng thần khởi phát từ dưới đáy biển sâu; khi còn ngoài xa khơi, sóng có biên độ (chiều cao sóng) khá nhỏ nhưng chiều dài của cơn sóng lên đến hàng trăm kilômét. Vì vậy khi ở xa bờ chúng ta khó nhận diện ra nó, mà chỉ cảm nhận là một cơn sóng cồn trải dài.
Ở Tây phương sóng thần trước kia từng được coi là sóng thuỷ triều (tiếng Anh: tidal wave) vì khi tiến vào bờ, sóng tác động như một đợt thuỷ triều mạnh dâng lên, khác hẳn loại sóng thường gặp ngoài biển tạo bởi gió. Tuy nhiên, vì không đúng với thực tế cho nên thuật ngữ này không còn dùng nữa.
Nguyên nhân

Các trận sóng thần có thể hình thành khi đáy biển, đột ngột bị biến dạng theo chiều dọc, chiếm chỗ của lượng nước nằm trên nó. Những sự di chuyển lớn theo chiều dọc như vậy của vỏ Trái Đất có thể xảy ra tại các rìa mảng lục địa. Những trận động đất do nguyên nhân va chạm mảng đặc biệt hay tạo ra các cơn sóng thần. Khi một mảng đại dương va chạm với một mảng lục địa, đôi khi nó làm rìa mảng lục địa chuyển động xuống dưới. Cuối cùng, áp suất quá lớn tác dụng lên rìa mảng khiến nó nhảy giật lùi lại (snaps back) tạo ra các đợt sóng chấn động vào vỏ Trái Đất, khiến xảy ra cơn địa chấn dưới lòng biển, được gọi là động đất tại đáy biển.
Những vụ lở đất dưới đáy biển (thỉnh thoảng xảy ra vì nguyên nhân động đất) cũng như những vụ sụp đổ của núi lửa cũng có thể làm chấn động cột nước khiến trầm tích và đá trượt xuống theo sườn núi rơi xuống đáy biển. Tương tự như vậy, một vụ phun trào núi lửa mạnh dưới biển cũng có thể tung lên một cột nước để hình thành sóng thần. Các con sóng được hình thành khi khối lượng nước bị dịch chuyển vị trí chuyển động dưới ảnh hưởng của trọng lực để lấy lại thăng bằng và tỏa ra trên khắp đại dương như các gợn sóng trên mặt ao.
Trong thập kỷ 1950 người ta đã khám phá ra rằng những cơn sóng thần lớn có thể xuất hiện từ các vụ lở đất, hoạt động phun trào núi lửa và các vụ va chạm thiên thạch. Những hiện tượng đó khiến một lượng nước lớn nhanh chóng bị chuyển chỗ, khi năng lượng từ một thiên thạch hay một vụ nổ chuyển vào trong nước nơi xảy ra va chạm. Các cơn sóng thần với xuất hiện từ những nguyên nhân đó, khác với những trận sóng thần do động đất gây ra, thường nhanh chóng tan rã và hiếm khi lan tới những bờ biển quá xa vì diện tích xảy ra sự kiện nhỏ. Các hiện tượng đó có thể gây ra các cơn sóng địa chấn lớn chỉ trong một khu vực, như vụ lở đất ở Vịnh Lituya tạo ra một sóng nước ước tính tới 50–150 m và tràn tới độ cao 524 m trên các ngọn núi ở đó. Tuy nhiên, một vụ lở đất cực lớn có thể gây ra một trận sóng thần cực lớn gây ảnh hưởng trên toàn bộ đại dương.
Các đặc điểm

Sóng thần diễn biến rất khác biệt tùy theo kiểu sóng: chúng chứa năng lượng cực lớn, lan truyền với tốc độ cao và có thể vượt khoảng cách lớn qua đại dương mà chỉ mất rất ít năng lượng. Một trận sóng thần có thể gây ra thiệt hại trên bờ biển cách hàng nghìn cây số nơi nó phát sinh, vì thế chúng ta có thể có nhiều tiếng đồng hồ chuẩn bị từ khi nó hình thành tới lúc ập vào một bờ biển, nó xuất hiện một thời gian khá dài sau khi sóng địa chấn hình thành từ nơi xảy ra sự kiện lan tới. Năng lượng trên mỗi mét dài trong sóng tỷ lệ với nghịch đảo của khoảng cách từ nguồn phát.[cần dẫn nguồn]
Thậm chí một trận sóng thần riêng biệt có thể liên quan tới một loạt các đợt sóng với những độ cao khác nhau. Ở vùng nước rộng, các cơn sóng thần có chu kỳ rất dài (thời gian để đợt sóng sau tới vị trí một điểm sau đợt sóng trước), từ nhiều phút tới nhiều giờ, và chiều dài sóng dài lên tới hàng trăm kilômét. Điều này rất khác biệt so với các con sóng hình thành từ gió bình thường trên mặt đại dương, chúng thường có chu kỳ khoảng 10 giây và chiều dài sóng 150 mét.
Chiều cao thực của một đợt sóng thần trên đại dương thường không tới một mét. Điều này khiến những người ở trên tàu giữa đại dương khó nhận ra chúng. Bởi vì chúng có chiều dài sóng lớn, năng lượng của một cơn sóng thần điều khiển toàn bộ cột nước, hướng nó xuống phía đáy biển. Các cơn sóng đại dương ở vùng nước sâu thường xuất hiện do chuyển động của nước tính từ bề mặt đến một độ sâu bằng một nửa chiều dài sóng. Điều này có nghĩa rằng sự di chuyển của sóng bề mặt đại dương chỉ đạt tới độ sâu khoảng 100 m hay ít hơn. Trái lại, những cơn sóng thần hoạt động như những con sóng vùng nước nông giữa biển khơi (bởi chiều dài của chúng ít nhất lớn gấp 20 lần chiều sâu nơi chúng hoạt động), bởi sự phân tán chuyển động của nước ít xảy ra nơi nước sâu.
Con sóng đi qua đại dương với tốc độ trung bình 500 dặm một giờ[1]. Khi tiến tới đất liền, đáy biển trở nên nông và con sóng không còn di chuyển nhanh được nữa, vì thế nó bắt đầu "dựng đứng lên"; phần phía trước con sóng bắt đầu dựng đứng và cao lên, và khoảng cách giữa các đợt sóng ngắn lại. Tuy một người ở ngoài đại dương có thể không nhận thấy dấu hiệu sóng thần, nhưng khi vào bờ nó có thể đạt chiều cao một tòa nhà sáu tầng hay hơn nữa. Quá trình dựng đứng lên này tương tự như khi ta vẩy một chiếc roi da. Khi sóng tiến từ phía cuối ra đầu roi, cùng một lượng năng lượng phân bố trong khối lượng vật liệu ngày càng nhỏ, khiến chuyển động trở nên mãnh liệt hơn. Càng đi vào đất liền, tốc độ di chuyển sẽ chậm lại nhưng ngọn sóng cao.
Một con sóng trở thành một con "sóng nước nông" khi tỷ lệ giữa độ sâu mặt nước và chiều dài sóng của nó rất nhỏ, và bởi vì sóng thần có chiều dài sóng rất lớn (hàng trăm kilômét), các cơn sóng thần hoạt động như những cơn sóng nước nông ngay bên ngoài đại dương. Những con sóng nước nông di chuyển với tốc độ bằng căn bậc hai của tích giữa gia tốc trọng trường (9.8 m/s2) và chiều sâu nước. Ví dụ, tại Thái Bình Dương, với độ sâu trung bình 4000 m, một cơn sóng thần di chuyển với tốc độ khoảng 200 m/s (720 km/h hay 450 dặm/giờ) và mất ít năng lượng, thậm chí đối với những khoảng cách lớn. Ở độ sâu 40 m, tốc độ sẽ là 20 m/s (khoảng 72 km/h hay 45 dặm/giờ), nhỏ hơn tốc độ trên đại dương nhưng rõ ràng con người không thể chạy nhanh hơn tốc độ này.
Sóng thần lan truyền từ nguồn phát (tâm chấn), vì thế những bờ biển trong vùng bị ảnh hưởng bởi chấn động thường lại khá an toàn. Tuy nhiên, các cơn sóng thần có thể gây nhiễu xạ xung quanh các mảng lục địa (như thể hiện trong hoạt hình này).

Đặc trưng riêng của điều kiện địa lý địa phương có thể dẫn tới hiện tượng triều giả hay sự hình thành các đợtsóng dừng, có thể gây thiệt hại lớn hơn trên bờ biển. Ví dụ, cơn sóng thần lan tới Hawaii ngày 1 tháng 4, 1946có thời gian ngắt quãng mười lăm phút giữa các đợt sóng. Chu kỳ cộng hưởng tự nhiên của Vịnh Hilo là khoảng mười ba phút. Điều đó có nghĩa mỗi đợt sóng tiếp theo trùng pha với chuyển động của Vịnh Hilo, tạo ra một đợt triều giả trong vịnh. Vì thế, Hilo bị thiệt hại nặng nền nhất so với tất cả các địa điểm khác tại Hawaii, đợt sóng thần/triều giả có độ cao lên tới 14 m giết hại 159 người.
Sóng biển được chia làm 3 loại, căn cứ vào độ sâu:
- Tầng nước sâu
- Tầng nước trung bình
- Tầng nước nông
Dù được tạo ra ở tầng nước sâu (khoảng 4000 m dưới mực nước biển), sóng thần được xem là sóng ở tầng nước nông. Khi sóng thần tiến vào tầng nước nông gần bờ, khoảng thời gian của nó không đổi, nhưng chiều dài sóng thì giảm liên tục, điều này làm cho nước tích tụ thành một mái vòm khỏng lồ, gọi là hiệu ứng "bị cạn".
Dấu hiệu của một đợt sóng thần sắp tới
Những dấu hiệu sau đây thường báo trước một cơn sóng thần: [2]:
- Cảm thấy động đất. Nếu cảm thấy nền đất rung lắc mạnh đến mức không còn đứng vững được, thì nhiều khả năng sẽ xảy ra một trận sóng thần.
- Các bong bóng chứa khí gas nổi lên mặt nước làm ta có cảm giác như nước đang bị sôi.
- Nước trong sóng nóng bất thường.
- Nước có mùi trứng thối (khí hyđro sulfua) hay mùi xăng, dầu.
- Nước làm da bị mẩn ngứa.
- Nghe thấy một tiếng nổ như là:
- - tiếng máy nổ của máy bay phản lực
- - hay tiếng ồn của cánh quạt máy bay trực thăng, hay là
- - tiếng huýt sáo.
- Biển lùi về sau một cách đáng chú ý.
- Mây đen vần vũ đầy trời.
- Vệt sáng đỏ ở đường chân trời.
- Khi sóng thần ập vào bờ, sẽ có tiếng gầm rú giống như chuyến tàu hỏa đang đến gần.
- Hàng triệu con chim hải âu bay ngược biển.
Cảnh báo và ngăn chặn
![]() |
Sóng thần không thể được dự đoán một cách hoàn toàn chính xác, nhưng có những dấu hiệu có thể báo trước một đợt sóng thần sắp xảy ra, và nhiều hệ thống đang được phát triển và được sử dụng để giảm thiểu những thiệt hại do sóng thần gây ra.
Ở những khoảnh khắc khi lưỡi đợt sóng thần là vùng lõm của nó, nước biển sẽ rút khỏi bờ với khoảng cách bằng nửa chu kỳ sóng trước khi đợt sóng tràn tới. Nếu đáy biển có độ nghiêng thấp, sự rút lui này có thể lên tới hàng trăm mét. Những người không nhận thức được về sự nguy hiểm có thể vẫn ở lại trên bãi biển vì tò mò, hay để nhặt những con cá trên đáy biển lúc ấy đã trơ ra.

Ở những khoảnh khắc khi lưỡi sóng của cơn sóng thần đạt mức đỉnh lần thứ nhất, những đợt sóng tiếp theo có thể khiến nước dâng cao hơn. Một lần nữa, việc hiểu biết về hoạt động của sóng thần rất quan trọng, để có thể nhận thức rằng khi mực nước rút xuống lần đầu tiên, nguy hiểm chưa hề qua. Ở những vùng bờ biển có độ cao thấp, một trận động đất mạnh là dấu hiệu cảnh báo chính rằng một cơn sóng thần có thể đã được tạo ra.
Những vùng có nguy cơ sóng thần cao có thể sử dụng những hệ thống cảnh báo sóng thần để xác định và cảnh báo người dân trước khi sóng đi tới đất liền. Tại một số cộng đồng ở bờ biển phía tây nước Mỹ, vốn có nguy cơ đối mặt với các cơn sóng thần Thái Bình Dương, những dấu hiệu cảnh báo hướng dẫn người dân đường thoát hiểm khi một cơn sóng thần tràn tới. Các mô hình máy tính có thể dự đoán phỏng chừng khoảng thời gian tràn tới và sức mạnh của sóng thần dựa trên thông tin về sự kiện gây ra nó và hình dạng của đáy biển (bathymetry) và vùng đất bờ biển (địa hình học).[3]
Một trong những dấu hiệu cảnh báo sớm nhất là từ những loài động vật ở gần. Nhiều loài vật cảm giác được sự nguy hiểm và bỏ chạy lên vùng đất cao trước khi những con sóng tràn tới. Vụ động đất Lisbon là trường hợp đầu tiên được ghi lại về hiện tượng đó tại châu Âu. Hiện tượng này cũng đã được nhận thấy tại Sri Lanka trong trận Động đất Ấn Độ Dương 2004 ([4]). Một số nhà khoa học có thể suy luận rằng các loài vật có thể có một khả năng cảm nhận được sóng hạ âm Rayleigh waves từ một trận động đất nhiều phút hay nhiều giờ trước khi một cơn sóng thần tấn công vào bờ (Kenneally, [5]).
Trong khi vẫn chưa có khả năng ngăn chặn sóng thần, tại một số quốc gia thường phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên này, một số biện pháp đã được tiến hành nhằm giảm thiệt hại do sóng thần gây ra. Nhật Bản đã áp dụng một chương trình lớn xây dựng các bức tường chắn sóng thần với chiều cao lên tới 4.5 m (13.5 ft) trước những vùng bờ biển nhiều dân cư sinh sống. Những nơi khác đã xây dựng các cửa cống và kênh để dẫn dòng nước từ những cơn sóng thần đi hướng khác. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng vẫn còn là một vấn đề tranh cãi, bởi vì các cơn sóng thần thường cao hơn tường chắn. Ví dụ, đợt sóng thần tràn vào đảo Hokkaidongày 12 tháng 7, 1993 tạo ra những đợt sóng cao tới 30 m (100 ft) - tương đương một tòa nhà 10 tầng. Thị trấn cảng Aonae đã được trang bị một bức tường chắn sóng thần bao kín xung quanh, nhưng các cơn sóng đã tràn qua tường và phá hủy toàn bộ cấu trúc xây dựng bằng gỗ trong vùng. Bức tường có thể có tác dụng trong việc làm chậm và giảm độ cao sóng thần nhưng nó không ngăn cản được tính phá hủy và gây thiệt hại nhân mạng của sóng thần.
Những hiệu ứng của một cơn sóng thần có thể giảm bớt nhờ những yếu tố thiên nhiên như cây trồng dọc bờ biển. Một số vị trí trên đường đi của cơn sóng thần Ấn Độ Dương 2004 hầu như không bị thiệt hại gì nhờ năng lượng sóng thần đã bị một dải cây như dừa và đước hấp thụ. Một ví dụ khác, làng Naluvedapathy tại vùngTamil Nadu Ấn Độ bị thiệt hại rất ít khi những con sóng thần tan vỡ trong khu rừng 80.244 cây được trồng dọc bờ biển năm 2002 để được ghi tên vào Sách kỷ lục Guinness. [6] Những nhà môi trường đã đề xuất việc trồng cây dọc theo những vùng bờ biển có nguy cơ sóng thần cao. Tuy có thể mất vài năm để cây lớn đạt tới kích cỡ cần thiết, những công cuộc trồng rừng như vậy có thể mang lại những công cụ hữu hiệu, rẻ tiền cũng như có tác dụng lâu dài trong việc ngăn chặn sóng thần hơn những biện pháp đắt tiền, gây hại đến môi trường như các bức tường chắn sóng.
Ứng phó với sóng thần
a. Khi đang ở trên biển, ven biển:
- Khi đang ở trên tàu thuyền trên biển, ven biển mà nhận được tin cảnh báo sóng thần thì không nên cho tàu thuyền trở về cảng, mà nên di chuyển tàu thuyền đến những vùng nước sâu ít nhất là trên 150m, vì sóng thần có thể gây ra sự thay đổi nhanh chóng mực nước biển và tạo ra những dòng chảy nguy hiểm ở cảng và bến tàu; - Khi tàu thuyền còn neo đậu trong bờ mà nhận được tin cảnh báo sóng thần thì chủ tàu thuyền có thể đưa tàu thuyền của mình ra biển nếu có đủ thời gian và được sự thông báo của chính quyền, cơ quan chức năng; - Không được ở lại trên tàu thuyền neo đậu tại bến cảng vì sóng thần có mức phá hoại rất lớn.
b. Khi ở trên đất liền:
- Đang ở khu vực bãi biển: khi nhận được tin sóng thần phải ngay lập tức chạy đến nơi an toàn ở các bãi đất cao hoặc xa bờ biển từ 500m trở lên; - Đang ở nơi đông người: khi nhận được tin sóng thần phải ngay lập tức báo với những người khác cùng chạy đến nơi an toàn ở các bãi đất cao hoặc xa bờ biển từ 500m trở lên, đặc biệt là giúp đỡ trẻ em, người già, phụ nữ có thai đi sơ tán; - Đang ở trong nhà trệt, nhà thấp tầng: trong phạm vi dưới 500m so với bờ biển phải sơ tán vào sâu trên đất liền, chỉ mang theo các vật dụng, tài sản, giấy tờ quan trọng khi sơ tán; Đang ở trong nhà cao tầng: phải di chuyển lên các tầng cao, không ở lại tầng 1 cho đến tầng 3; mở trống các cửa ỏ các tầng thấp để hạn chế sự tác động của sóng.Đang đi trên đường: không được đi ra hướng bờ biển. Nguồn: Sóng thần và một số biện pháp phòng tránh, ứng phó
Các trận sóng thần lịch sử
Sóng thần xảy ra thường xuyên nhất ở Thái Bình Dương nhưng là một hiện tượng toàn cầu; sóng thần có thể xảy ra ở bất kì nơi nào có khối nước lớn, bao gồm cả những hồ nằm trong đất liền, có khả năng xảy ra sự dịch chuyển của khối đất bên dưới. Những cơn sóng thần nhỏ, không gây thiệt hại và không thể nhận biết được nếu không có thiết bị chuyên môn, xảy ra thường xuyên như kết quả của những trận động đất nhẹ và các địa chấn khác.
Trận sóng thần ở Đảo Vancouver, Canada năm 1700[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 26 tháng 1, trận động đất Cascadia, một trong những trận động đất mạnh nhất trong lịch sử, làm gián đoạn Cascadia Subduction Zone offshore từ đảo Vancouver đến bắc California, tạo nên một cơn sóng thần được ghi lại trong lịch sử Nhật Bản cũng như trong lịch sử truyền khẩu của người thổ dân châu Mỹ.
Trận sóng thần ở Lisboa, Bồ Đào Nha năm 1755
Hàng vạn người sống sót qua trận động đất ở Lisboa năm 1755 đã thiệt mạng trong đợt sóng thần xảy ra sau đó nửa giờ. Nhiều cư dân thành phố chạy ra bờ biển, tin rằng nơi này có thể tránh khỏi các đám cháy và mảnh vỡ do động đất. Trước khi cơn sóng thần ập vào cảng, nước rút rất nhanh, để lộ những hàng hóa bị rơi xuống biển và những chiếc tàu đắm bị lãng quên.
Động đất, sóng thần và hỏa hoạn sau đó đã giết chết hơn một phần ba dân số Lisboa trước trận động đất. Những văn lịch sử ghi chép lại các cuộc thám hiểm củaVasco da Gama và những nhà hàng hải trước đó bị mất, rất nhiều ngôi nhà bị phá hủy (gồm cả đa số những kiến trúc Manueline Bồ Đào Nha). Những người châu Âu ở thế kỷ 18 đã tìm cách giải thích thảm họa này trong tôn giáo và các hệ thống đức tin lý trí. Các nhà triết học Thời khai sáng, nổi tiếng nhất là Voltaire, đã viết về sự kiện này. Quan niệm triết học về sự siêu phàm, như được nhà triết học Immanuel Kant miêu tả trong cuốn Beobachtungen über das Gefühl des Schönen und Erhabenen (Những quan sát về Cảm giác của Cái đẹp và sự Siêu phàm), có một phần cảm hứng trong nỗ lực tìm hiểu tầm cỡ của trận động đất và sóng thần Lisboa.
1883 - Vụ nổ phun trào Krakatoa
Hòn đảo núi lửa Krakatoa ở Indonesia đã nổ tung với sức mạnh hủy diệt năm 1883, thổi tung một phần buồng magma dưới chân nó khiến vùng đất nằm phía trên đó và đáy biển sụp đổ. Một loạt những cơn sóng thần đã hình thành sau vụ sụp đổ, một số cơn đạt tới độ cao hơn 40 mét trên mực nước biển. Các cơn sóng thần được quan sát thấy trên khắp Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, bờ biển phía tây nước Mỹ, Nam Mỹ và thậm chí xa tới cả Kênh Anh Quốc. Ở bờ biển phía đối diện tạiJava và Sumatra nước lụt tràn sâu nhiều dặm vào trong bờ gây ra thiệt hại to lớn về nhân mạng tới mức một vùng dân cư đã không bao giờ được khôi phục và trở thành rừng rậm và hiện là khu dự trữ sinh quyển Ujung Kulon.
Vụ nổ Halifax và sóng thần
Vụ nổ Halifax xảy ra ngày thứ Năm, 6 tháng 12 năm 1917 lúc 9:04:35 sáng giờ địa phương tại Halifax, Nova Scotia ở Canada, khi chiếc tàu chở vũ khí cho Thế chiến thứ nhất Mont-Blanc của Pháp va chạm với chiếc tàu thủy Na Uy Imo được thuê chở đồ trợ cấp cho Bỉ. Hậu quả của vụ va chạm làm chiếc Mont-Blanc bốc cháy vànổ tung. Vụ nổ gây ra một cơn sóng thần, và một làn sóng sung kích trong không khí.
1929 - Trận sóng thần Newfoundland
Ngày 18 tháng 11 năm 1929, một trận động đất mạnh 7.2 độ xảy ra bên dưới Dốc Laurentian tại Grand Banks. Chấn động được cảm nhận thấy tại khắp các tỉnh bang vùng Atlantic ở Canada và đến tận Ottawa ở phía tây cũng như Claymont, Delaware ở phía nam. Hậu quả là sau 2½ giờ một cơn sóng thần cao hơn 7 mét tràn vào bán đảo Burin trên bờ biển phía nam Newfoundland, 28 người thuộc nhiều cộng đồng dân cư đã thiệt mạng.
1946 - Trận sóng thần Thái Bình Dương

Ngày 1 tháng 4 trận sóng thần do vụ Động đất quần đảo Aleut gây ra giết hại 165 người tại Hawaii và Alaska dẫn tới việc hình thành hệ thống cảnh báo sóng thần (cụ thể là Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Thái Bình Dương), được thành lập năm 1949 giám sát cho các quốc gia vùng Thái Bình Dương. Tại Hawaii cơn sóng thần được gọi là "Sóng thần Ngày Nói dối" vì mọi người đã tin rằng cảnh báo sóng thần là một trò đùa Ngày Nói dối.
1960 - Trận sóng thần Chile
Trận Động đất Lớn Chile với cường độ 9.5 độ Richter là trận động đất mạnh nhất từng được ghi lại. Tâm chấn nằm ngoài khơi Trung Nam Chile, gây ra một trong những trận sóng thần có sức tàn phá lớn nhất thế kỷ 20.
Cơn sóng trải dài khắp Thái Bình Dương, với những con sóng đo được tới 25 mét. Đợt sóng đầu tiên ập tới Hilo, Hawaiisau khoảng 14.8 giờ từ khi nó được hình thành ngoài khơi Trung Nam Chile.
Đợt sóng cao nhất tại Vịnh Hilo đo được khoảng 10,7 m (35 ft.). 61 người thiệt mạng với nguyên nhân được cho là do không để ý tới những hồi còi báo động. Khi sóng thần tràn vào Onagawa, Nhật Bản, 22 giờ sau trận động đất, chiều cao sóng đạt 3 mét trên mực thủy triều đang dâng cao. Số lượng người chết do vụ động đất và cơn sóng thần sau đó được ước lượng trong khoảng 490 tới 2.290.
1963 - Thảm họa Đập Vajont
Hồ chứa nước phía sau Đập Vajont phía bắc Ý đã bị một trận lở đất lớn lao xuống. Một cơn sóng thần phát sinh quét qua đỉnh đập (nhưng không làm vỡ nó) lao xuống thung lũng bên dưới. Gần 2.000 người thiệt mạng.
1964 - Trận sóng thần Ngày thứ Sáu Tuần thánh
Sau Trận động đất Ngày thứ Sáu Tuần thánh cường độ 9.2 độ, một cơn sóng thần đã tấn công Alaska, British Columbia, California và các thị trấn ven bờ biển tây bắc Thái Bình Dương, khiến 121 người chết. Những cơn sóng cao tới 6 mét, và giết hại 6 người ở Crescent City, California.
1976 - Trận sóng thần Vịnh Moro
Ngày 16 tháng 8 năm 1976 lúc 12:11 sáng, một trận động đất 7.9 độ xảy ra ở đảo Mindanao, Philippines. Nó tạo ra một cơn sóng thần tàn phá hơn 700 km bờ biển quanh Vịnh Moro ở phía Bắc biển Celebes. Ước lượng số người chết trong thảm họa này lên tới 5.000 người, 2.200 người mất tích hay được cho đã chết, hơn 9.500 người bị thương và tổng cộng 93.500 trở thành vô gia cư. Nó cũng đã tàn phá các thành phố và thị trấn như Thành phố Pagadian, Zamboanga del Sur,Thành phố Zamboanga, Basilan, Sulu, Sultan Kudarat, Maguindanao, Thành phố Cotabato, Lanao del Sur và Lanao del Norte.
1979 - Trận sóng thần Tumaco
Một trận động đất mạnh 7.9 độ đã xảy ra ngày 12 tháng 12 năm 1979 lúc 7:59:4.3 (UTC) dọc theo bờ biển Thái Bình Dương của Colombia và Ecuador. Trận động đất và cơn sóng thần do nó gây ra đã phá hủy ít nhất năm làng cá và cái chết của hàng trăm người tại tỉnh Nariño Colombia. Chấn động được cảm nhận thấy tạiBogotá, Cali, Popayán, Buenaventura và nhiều thành phố khác tại Colombia và tại Guayaquil, Esmeraldas, Quito cũng như nhiều vùng khác tại Ecuador. Khi Sóng thần Tumaco tràn lên bờ, nó phá hủy trầm trọng thành phố Tumaco, cũng như các thị trấn El Charco, San Juan, Mosquera và Salahonda trên bờ biển Thái Bình Dương của Colombia. Tổng số nạn nhân trong thảm họa này là 259 người chết, 798 người bị thương 95 người mất tích hoặc được cho là đã chết.
1993 - Trận sóng thần Okushiri
Một trận sóng thần có sức tàn phá lớn đã xảy ra ngoài khơi Hokkaido Nhật Bản sau một trận động đất ngày 12 tháng 7 năm 1993. Kết quả, 202 người trên hòn đảo nhỏ Okushiri thiệt mạng và hàng trăm người mất tích hay bị thương. Thêm nữa, hàng trăm triệu chú chim cảnh, mèo và chó cũng thiệt mạng.
2004 - Trận sóng thần Ấn Độ Dương

Trận động đất Ấn Độ Dương 2004, với cường độ được ước lượng khoảng từ 8.90-9.30 trên thang độ Richter (cường độ hiện vẫn chưa được thống nhất, nhưng đa số cho rằng là lớn hơn 9.0 Richter), đã gây ra một loạt những cơn sóng thần khủng khiếp ngày 26 tháng 12 năm 2004giết hại khoảng 230.000 người (gồm 168.000 người tại riêng Indonesia), biến nó trở thành trận sóng thần gây nhiều thiệt hại nhân mạng nhất trong lịch sử [7]. Cơn sóng thần giết hại người dân ở cả vùng lân cận trận động đất tại Indonesia, Thái Lan và bờ biển tây bắc Malaysia cho tới những nơi cách xa hàng nghìn kilômét tại Bangladesh, Ấn Độ, Sri Lanka, Maldives và thậm chí tới cả Somalia, Kenya và Tanzania ở ĐôngPhi. Thảm họa đã dẫn tới một chiến dịch quyên góp toàn cầu hỗ trợ cho các nạn nhân, với hàng tỷ dollar đã được quyên góp.
Không giống như Thái Bình Dương, không hề có một trung tâm cảnh báo sóng thần nào đặt tại Ấn Độ Dương. Một phần do nguyên nhân là do từ vụ phun trào Krakatoa năm 1883 (giết hại 36.000 người) tới năm 2004 không một trận sóng thần nào xảy ra ở khu vực này. Sau trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004, UNESCO và các tổ chức quốc tế khác đã kêu gọi thiết lập một hệ thống giám sát sóng thần toàn cầu.
2006 - Trận sóng thần nam Đảo Java
Một trận động đất mạnh 7.7 độ Richter làm rung chuyển Ấn Độ Dương ngày 17 tháng 7 năm 2006 tại địa điểm cách 200 km phía nam Pangandaran, một bãi biển đẹp nổi tiếng về những đợt sóng thích hợp cho những người ưa thích môn lướt sóng. Trận động đất này đã gây ra một cơn sóng thần với nhiều độ cao khác nhau từ 2 mét tại Cilacap tới 6 mét tại bãi biển Cimerak cuốn và phạt bằng những ngôi nhà ở sâu tới 400 mét bên trong bờ biển. Số lượng nạn nhân được thông báo gồm 600 người chết và khoảng 150 người vẫn đang mất tích.
2010 - Trận sóng thần Chile
Trận động đất lớn ở Chile với cường độ 8.8 độ Richter xảy ra ngày 27 tháng 2, 2010 gần thành phố Concepción, cách thủ đô Santiago 500 km về phía nam. Trận động đất này gây ra những trận sóng thần tàn phá nhiều thành phố dọc bờ bể Chile và những sóng thần nhỏ ở Hawaii và Nhật Bản.
2011 - Trận sóng thần Sendai
Trận động đất mạnh 9.0 độ Richter xảy ra ngày 11 tháng 3 năm 2011 gần thành phố Sendai, cách thủ đô Tokyo 373 km về phía nam. Trận động đất này gây ra sóng thần dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và hơn 20 quốc gia khác tại Châu Đại Dương, Châu Á, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Các trận sóng thần khác ở Nam Á
Những trận sóng thần tại Nam Á (Nguồn: Trung tâm Địa chấn Không chuyên Ấn Độ)[8] | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|
Ngày | Địa điểm | |||||
1524 | Gần Dabhol, Maharashtra | |||||
2 tháng 4,1762 | Bờ biển Arakan, Myanma | |||||
16 tháng 6,1819 | Rann of Kachchh, Gujarat, Ấn Độ | |||||
31 tháng 10,1847 | Đảo Nicobar lớn, Ấn Độ | |||||
31 tháng 12,1881 | Đảo Car Nicobar, Ấn Độ | |||||
26 tháng 8,1883 | Phun trào núi lửa Krakatoa | |||||
28 tháng 11,1945 | Bờ biển Mekran, Balochistan | |||||
26 tháng 12,2004 | Banda Aceh, Indonesia; Tamil Nadu (Ấn Độ), Kerala (Ấn Độ), Andhra Pradesh (Ấn Độ), Quần đảo Andaman và Quần đảo Nicobar (Ấn Độ); Sri Lanka; Thái Lan; Malaysia; Maldives; Somalia; Kenya; Tanzania |
Các trận sóng thần lịch sử khác
Các cơn sóng thần khác đã xảy ra gồm:
- Khoảng năm 500 trước Công nguyên: Poompuhar, Tamil Nadu, Ấn Độ, Maldives
- 1541: một cơn sóng thần đã tấn công những khu định cư đầu tiên của người châu Âu tại Brasil, São Vicente. Không có ghi chép về số người chết và bị thương, nhưng thị trấn hầu như bị phá hủy hoàn toàn.
- 20 tháng 1 năm 1606/1607: dọc bờ biển Kênh Anh Quốc hàng nghìn người chết đuối, nhà cửa và những ngôi làng bị cuốn bay, đất trồng trọt bị tràn ngập và các đàn gia súc bị một cơn lũ có thể là sóng thần cuốn trôi. Nguyên nhân của trận lụt còn đang bị tranh cãi, có lẽ nó xuất hiện do sự cộng hưởng của các điều kiện khí hậu và triều cường(tranh luận).
- 26 tháng 1, 1700: trận Động đất Cascadia (ước đạt 9.0 độ) đã gây ra những đợt sóng thần lớn trên vùng Tây bắc Thái Bình Dương.
- Một trong những thảm họa sóng thần tồi tệ nhất đã nhận chìm toàn bộ các ngôi làng dọc Sanriku, Nhật Bản, năm 1896. Một cơn sóng cao hơn tòa nhà bảy tầng (khoảng 20 m) đã làm khoảng 26.000 người chết đuối.
- 1946: Một trận động đất tại Quần đảo Aleutian gây ra một cơn sóng thần tràn tới Hawaii, giết hại 159 người (năm người chết tại Alaska).
- 9 tháng 7, 1958: Một trận lở đất lớn gây ra một cơn sóng tần tại fjord ở Vịnh Lituya, Alaska, Hoa Kỳ. Nó di chuyển với tốc độ hơn 150 km/h.
- 26 tháng 5, 1983: 104 ở phía Tây Nhật Bản đã thiệt mạng khi một cơn sóng thần xuất hiện từ một trận động đất ở gần đó.
- 17 tháng 7, 1998: Một cơn sóng thần tại Papua New Guinea giết hại khoảng 2200 người [9]. Một trận động đất 7.1 độ ngoài khơi 24 km sau đó 11 phút là một cơn sóng thần cao 12 m. Tuy cường độ trận động đất không đủ lớn để trực tiếp tạo ra các cơn sóng thần, mọi người tin rằng nó đã gây ra một vụ lở đất dưới đáy biển, dẫn tới sóng thần. Những làng mạc tại Arop và Warapu bị phá huỷ.
- 17 tháng 7, 2006: Một cơn sóng thần cao 1.8 m tràn vào bờ biển phía nam đảo Java, Indonesia lúc gần 11:20 UTC. Giết hại ít nhất 500 người và làm hư hại nhà cửa, tàu bè và khách sạn tại hay ở gần bờ biển Pangandaran. Cơn sóng thần do một trận động đất mạnh 7.7 độ ngoài khơi Ấn Độ Dương trực tiếp gây nên. Xem Trận động đất tháng 7, 2006 Java.
Sóng thần tại Bắc Mỹ và Caribe
- 1690 - Nevis
- 14 tháng 11, 1840 - Great Swell trên Sông Delaware
- 18 tháng 11, 1867 - Quần đảo Virgin
- 17 tháng 11, 1872 - Maine
- 11 tháng 10, 1918 - Puerto Rico
- 18 tháng 11, 1929 - Newfoundland
- 9 tháng 1, 1926 - Maine
- 4 tháng 8, 1946 - Cộng hòa Dominica
- 18 tháng 8, 1946 - Cộng hòa Dominica
- Có thể coi là sóng thần
- 35 triệu năm trước - Thiên thạch Vịnh Chesapeake, Vịnh Chesapeake
- 9 tháng 6, 1913 - Longport, New Jersey
- 6 tháng 8,1923 - Rockaway Park, Queens, New York
- 8 tháng 8, 1924 - Đảo Coney, New York
- 19 tháng 8, 1931 - Thành phố Atlantic, New Jersey
- 21 tháng 9, 1938 - Hurricane, Bờ biển New Jersey
- 19 tháng 5, 1964 - Đông bắc Hoa Kỳ
- 4 tháng 7, 1992 - Bãi biển Daytona, Florida
Nguồn: NOAA Văn phòng Dự báo Thời tiết Quốc gia
Sóng thần tại châu Âu
- Ngày 16 tháng 10, 1979 - 23 người đã chết khi bờ biển Nice, Pháp, bị một cơn sóng thần tấn công. Đây có thể là một trận sóng thần do con người gây ra vì việc xây dựng một sân bay mới ở Nice đã gây ra một trận lở đất dưới đáy biển [10].
__________________
____________________________
Danh sách những cơn sóng thần trong lịch sử và số lượng người chết
- 228.000–560000 - Thảm họa Sóng thần Ấn Độ Dương 2004 ở (Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka, Thái Lan, Somalia, Myanma và các nước khác)
- 100.124 - Động đất ở Lisboa, 1755, sóng thần, động đất và hỏa hoạn, 1755, Bồ Đào Nha và Maroc
- 70.000 - Messina, Ý, động đất và sóng thần, 1908
- 40.000 - Nam Hải, 1782, kể cả số chết tại Đài Loan
- 36.000 - Núi lửa Krakatoa nổ, 1883
- 30.000 - Tokaido-Nankaido, Nhật Bản, 1707
- 27.000 - Nhật Bản, 1826
- 25,.74 - Chile, 1868
- 22.070 - Sanriku, Nhật Bản, 1896
- 15.030 - gây ra bởi núi Unzen, Tây Nam Kyushu, Nhật Bản, 1792
- 13.486 - Vịnh Lưu Cầu, 1771
- 8.650 - Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, Sendai và Tokyo, Nhật Bản, 11/3/2011
- 5.233 - Tokaido-Kashima, Nhật Bản, 1703
- 5.000 - Nankaido, Nhật Bản, 1605
- 5.000 - Vịnh Moro, Philippines, 1976
- 4.000 - Borneo, Indonesia, 1952
- 3.000 - Papua New Guinea, 1998
- 3.008 - Sanriku, Nhật Bản, 1933
- 2.000 - Động đất lớn tại Chile, gây chết tại Chile, Hoa Kỳ (Hawaii), Philippines và Nhật Bản, 1960
- 2.000 - Lụt tại eo Bristol, 1607, có thể được gây ra bởi sóng thần, Anh
- 750 - Sóng thần tại Java, gây ra bởi động đất, 2006
- 360 - Sóng thần tại Tumaco, gây ra bởi động đất tại Colombia và Ecuador, 1979
- 202 - Sóng thần tại Okushiri, gây ra bởi động đất, 1993
- 165 - Động đất tại quần đảo Aleut, gây chết tại Hawaii và Alaska, 1946
- 122 - Động đất ngày thứ Sáu Thánh, Alaska và Hawaii, 1964
- 27 hoặc 51 - Vịnh Placentia, Newfoundland, Canada, 1929
- 23 - Nice, Pháp, 1979
Danh sách các trận động đất lớn do USGS lập
Đây là danh sách các trận động đất lớn do USGS lập. Xem bảng dưới đây để biết thêm chi tiết.
Ngày | Giờ‡ | Địa điểm | Vĩ | Kinh | Thương vong | M | MX† (M tham chiếu) |
---|---|---|---|---|---|---|---|
23 tháng 1năm 1556 | Thiểm Tây năm Trung Quốc xem Động đất Thiểm Tây 1556 | 34,5° vĩ bắc | 109,7° kinh đông | 830.000 | ~8,0 | ||
17 tháng 8năm 1668 | Anatolia năm Thổ Nhĩ Kỳ | 40° vĩ bắc | 36° kinh đông | 8.000 | ~8,0 | ||
26 tháng 1năm 1700 | Cascadia chuyển từ Bắc California sang Đảo Vancouver xem Động đất Cascadia 1700 | ~9,0 | M (Satake và ctv., 1996) | ||||
1 tháng 11năm 1755 | 10:16 | Lisboa năm Bồ Đào Nha xem Động đất Lisboa 1755 | 36° vĩ bắc | -11° kinh tây | ~80.000 | ~8,7 | MI (Johnston, 1996) |
16 tháng 12năm 1811 | 8:00 | New Madrid, Missouri, Hoa Kỳ xem Động đất New Madrid 1811 | 36,6° vĩ bắc | -89,6° kinh tây | ~8,1 | MI (Johnston, 1996) | |
23 tháng 1năm 1812 | 15:00 | New Madrid, Missouri, Hoa Kỳ | 36,6° vĩ bắc | -89,6° kinh tây | ~7,8 | MI (Johnston, 1996) | |
7 tháng 2năm 1812 | 9:45 | New Madrid, Missouri, Hoa Kỳ | 36,6° vĩ bắc | -89,6° kinh tây | ~8,0 | MI (Johnston, 1996) | |
2 tháng 6năm 1823 | 8:00 | Sườn phía nam của núi Kilauea, Hawaii, Hoa Kỳ | 19,3° vĩ bắc | -155° kinh tây | ~7,0 | MI (Klein và Wright, 2000) | |
10 tháng 6năm 1836 | 15:30 | Phía nam Vịnh San Francisco, California, Hoa Kỳ | 36,9° vĩ bắc | -121,5° kinh tây | ~6,5 | MI (Bakun, 1999) | |
Tháng 6 năm 1838 | Bán đảo San Francisco,California, Hoa Kỳ | 37,3° vĩ bắc | -123,2° kinh tây | ~6,8 | MI (Bakun, 1999) | ||
5 tháng 1năm 1843 | 2:45 | Marked Tree, Arkansas, Hoa Kỳ | 35,5° vĩ bắc | -90,5° kinh tây | ~6,3 | MI (Johnston, 1996) | |
9 tháng 1năm 1857 | 16:24 | Fort Tejon, California (Phay nghịch San Andreas từ Parkfield đến Wrightwood) xem Động đất Fort Tejon 1857 | 1 | ~7,9 | M (Grant và Sieh, 1993; Stein và Hanks, 1998) | ||
16 tháng 12năm 1857 | 21:00 | Napoli, Ý | 40,3° vĩ bắc | 16° kinh đông | 11.000 | ~6,9 | MI |
8 tháng 10năm 1865 | 20:46 | San Jose, California, Hoa Kỳ | 37,2° vĩ bắc | 121,9° kinh tây | ~6,5 | MI (Bakun, 1999) | |
3 tháng 4năm 1868 | 2:25 | Hilea, đông nam Hawaii,Hawaii, Hoa Kỳ | 19,2° vĩ bắc | -155,5° kinh tây | 77 | ~7.9 | MI (Klein và Wright, 2000) |
21 tháng 10năm 1868 | 15:53 | Hayward, California, Hoa Kỳ | 37,7° vĩ bắc | -122,1° kinh tây | 30 | ~6,8 | MI (Bakun, 1999) |
20 tháng 2năm 1871 | 8:42 | Molokai, Hawaii, Hoa Kỳ | 21,2° vĩ bắc | -156,9° kinh tây | ~6,8 | MI (Klein và Wright, 2000) | |
26 tháng 3năm 1872 | 10:30 | Thung lũng Owens,California, Hoa Kỳ xem 1872 Trận động đất Lone Pine | 36,5° vĩ bắc | -118° kinh tây | 27 | ~7,6 | M (Beanland và Clark, 1994) |
15 tháng 12năm 1872 | 5:40 | Phía bắc Cascades, Washington, Hoa Kỳ | 47,9° vĩ bắc | -120,3° kinh tây | ~7,3 | MI (Malone và Bor, 1979; Rogers và ctv., 1983) | |
23 tháng 11năm 1873 | 5:00 | Bờ biển California-Oregon | 42,2° vĩ bắc | -124,2° kinh tây | ~7,3 | MI (Bakun, 2000) | |
31 tháng 8năm 1886 | 2:51 | Charleston, Nam Carolina,Hoa Kỳ | 32,9° vĩ bắc | -80° kinh tây | 60 | ~7,3 | MI (Johnston, 1996) |
24 tháng 4năm 1890 | 11:36 | California, California, Hoa Kỳ | 37° vĩ bắc | 121,8° kinh tây | ~6,3 | MI (Bakun, 1999) | |
27 tháng 10năm 1891 | 21:38 | Mino-Owari, Nhật Bản | 35,6° vĩ bắc | 136,6° kinh tây | 7.273 | ~8,0 | MS |
19 tháng 4năm 1892 | 10:50 | Vacaville, California, Hoa Kỳ | 38,5° vĩ bắc | -121,8° kinh tây | 1 | ~6,4 | MI (Bakun, 1999) |
21 tháng 4năm 1892 | 17:43 | Winters, California, Hoa Kỳ | 38,6° vĩ bắc | -122° kinh tây | ~6,4 | MI (Bakun, 1999) | |
31 tháng 10năm 1895 | 11:08 | Charleston, Missouri, Hoa Kỳ | 37° kinh tây | -89,4° vĩ bắc | ~6,6 | MI (Johnston, 1996) | |
15 tháng 6năm 1896 | 19:32 | Sanriku, Nhật Bản | 39,5° vĩ bắc | 144° kinh đông | ~8,5 | M | |
12 tháng 6năm 1897 | 11:06 | Assam, Ấn Độ | 26° vĩ bắc | 91° kinh đông | 1.500 | ~8,3 | |
20 tháng 6năm 1897 | 20:14 | Calaveras fault, California,Hoa Kỳ | 37° vĩ bắc | -121,6° kinh tây | ~6,3 | MI (Bakun, 1999) | |
31 tháng 3năm 1898 | 7:43 | Đảo Mare, California, Hoa Kỳ | 38,1° vĩ bắc | 122,4° kinh tây | ~6,3 | MI (Bakun, 1999) | |
15 tháng 4năm 1898 | 7:07 | Mendocino, California, Hoa Kỳ | 39,3° vĩ bắc | -123,9° kinh tây | ~6,8 | MI (Bakun, 2000) | |
4 tháng 9năm 1899 | 0:22 | Mũi Yakataga, Alaska, Hoa Kỳ | 60° vĩ bắc | -142° kinh tây | 7,9 | MS | |
10 tháng 9năm 1899 | 21:41 | Vịnh Yakutat, Alaska, Hoa Kỳ | 60° vĩ bắc | -142° kinh tây | 8,0 | MS | |
9 tháng 10năm 1900 | 12:28 | Đảo Kodiak, Alaska, Hoa Kỳ | 57,1° vĩ bắc | -153,5° kinh tây | 7,7 | MS | |
3 tháng 3năm 1901 | 7:45 | Parkfield, California, Hoa Kỳ | 36,2° vĩ bắc | -120,7° kinh tây | 6,4 | MS (Abe, 1988) | |
27 tháng 8năm 1904 | 21:56 | Fairbanks, Alaska, Hoa Kỳ | 64,7° vĩ bắc | -148,1° kinh tây | 7,3 | MS | |
9 tháng 7năm 1905 | 9:40 | Mông Cổ | 49° vĩ bắc | 99° kinh đông | 8,4 | M | |
31 tháng 1năm 1906 | 15:36 | Colombia-Ecuador | 1° vĩ nam | -81,5° kinh tây | 1.000 | 8,8 | M |
18 tháng 4năm 1906 | 13:12 | San Francisco, California (San Andreas fault từ Cape Mendocino đến San Juan Bautista) see Trận động đất San Francisco 1906. | 3.000 | 7.8 | M (Bakun, 1999) | ||
17 tháng 8năm 1906 | 0:40 | Valparaíso, Chile | -33 | -72 | 20.000 | 8.2 | M |
28 tháng 12năm 1908 | 4:20 | Messina, Ý | 38.3 | 15.6 | 70.000 | 7.2 | MS |
1 tháng 7năm 1911 | 22:00 | Calaveras fault, California,Hoa Kỳ | 37.39 | -121.8 | 6.5 | MS | |
3 tháng 10năm 1915 | 6:52 | Pleasant Valley, Nevada, Hoa Kỳ | 40.5 | -117.5 | 7.1 | M (Stover and Coffman, 1993) | |
11 tháng 10năm 1918 | 14:14 | Puerto Rico | 18.47 | -67.63 | 116 | 7.5 | MS (McCann, 1985) |
6 tháng 12năm 1918 | 8:41 | Bán đảo Vancouver, British Columbia, Canada | 49.62 | -125.92 | 7 | ML (Gutenberg and Richter, 1954: Rogers, 1983) | |
16 tháng 12năm 1920 | 12:05 | Ninh Hạ-Cam Túc, Trung Quốc | 36.6 | 105.32 | 200.000 | 8.6 | MS |
31 tháng 1năm 1922 | 13:17 | ngoài khơi, Cape Mendocino,California, Hoa Kỳ | 40.7 | -125.55 | 7.3 | MG-R (Ellsworth, 1990) | |
10 tháng 3năm 1922 | 11:21 | Parkfield, California, Hoa Kỳ | 35.9 | 120.9 | 6.1 | M (Bakun and McEvilly, 1984) | |
22 tháng 1năm 1923 | 9:04 | ngoài khơi, Cape Mendocino,California, Hoa Kỳ | 40.49 | -125.32 | 7.2 | MG-R (Ellsworth, 1990) | |
1 tháng 9năm 1923 | 2:58 | Kanto, Nhật Bản xem Đại thảm họa động đất Kantō 1923 | 35.4 | 139.08 | 143.000 | 7.9 | M |
1 tháng 3năm 1925 | 2:19 | Charlevoix, Québec, Canada | 47.76 | -69.84 | 6.3 | M (Bent, 1992) | |
28 tháng 6năm 1925 | 1:21 | Clarkston Valley, Montana,Hoa Kỳ | 46.32 | -111.52 | 6.6 | M (Dosier, 1989) | |
29 tháng 6năm 1925 | 14:42 | Santa Barbara, California,Hoa Kỳ | 34.3 | -119.8 | 13 | 6.8 | M (Stein and Hanks, 1998) |
22 tháng 10năm 1926 | 12:35 | Vịnh Monterey, California,Hoa Kỳ | 36.62 | -122.35 | 6.1 | MG-R (Ellsworth, 1990) | |
22 tháng 10năm 1926 | 13:35 | Vịnh Monterey, California,Hoa Kỳ | 36.55 | -122.18 | 6.1 | MG-R (Ellsworth, 1990) | |
7 tháng 3năm 1927 | 9:27 | Tango, Nhật Bản | 35.8 | 134.92 | 3.020 | 7.6 | MS |
22 tháng 5năm 1927 | 22:32 | Tsinghai, Trung Quốc | 37.39 | 102.31 | 200.000 | 7.9 | MS |
4 tháng 11năm 1927 | 13:51 | ngoài khơi Lompoc,California, Hoa Kỳ | 34.92 | -121.03 | 7.1 | M (Stein and Hanks, 1998) | |
18 tháng 11năm 1929 | 20:32 | Grand Banks,Newfoundland, Canada | 44.69 | -56.01 | 7.3 | M (Bent, 1995) | |
21 tháng 12năm 1932 | 6:10 | Cedar Mountain, Nevada,Hoa Kỳ | 38.51 | -118.08 | 7.2 | M | |
2 tháng 3năm 1933 | 17:31 | Sanriku, Nhật Bản | 39.22 | 144.62 | 2.990 | 8.4 | M |
11 tháng 3năm 1933 | 1:54 | Bờ biển dài, California, Hoa Kỳ xem Trận động đất ở Bờ biển dài năm 1933 | 33.6 | -118 | 115 | 6.4 | M (Hauksson & Gross, 1991) |
20 tháng 11năm 1933 | 23:21 | Baffin Bay, Canada | 73 | -69.98 | 7.4 | M (Stein et al. 1979) | |
15 tháng 1năm 1934 | 8:43 | Bihar, Ấn Độ | 27.55 | 87.09 | 10.700 | 8.1 | M (Chen and Molnar, 1977) |
8 tháng 6năm 1934 | 4:47 | Parkfield, California, Hoa Kỳ | 35.9 | -120.9 | 6.1 | M (Bakun and McEvilly, 1984) | |
1 tháng 11năm 1935 | 6:03 | Timiskaming, Québec,Canada | 48.89 | -79 | 6.2 | M (Bent, 1996) | |
22 tháng 7năm 1937 | 17:09 | Salcha, Alaska, Hoa Kỳ | 64.49 | -146.85 | 7.3 | MS | |
23 tháng 1năm 1938 | 8:32 | Maui, Hawaii, Hoa Kỳ | 20.96 | -156.18 | 6.8 | MS (Klein and Wright, 2000) | |
10 tháng 11năm 1938 | 20:18 | Shumagin Islands, Alaska,Hoa Kỳ | 55.33 | -158.37 | 8.2 | M | |
26 tháng 12năm 1939 | 23:57 | Erzincan, Thổ Nhĩ Kỳ | 39.77 | 39.53 | 32.700 | 7.8 | MS |
19 tháng 5năm 1940 | 4:36 | Thung lũng Hoàng gia,California, Hoa Kỳ | 32.73 | -115.5 | 9 | 7.1 | M (Ellsworth, 1990) |
7 tháng 12năm 1944 | 4:35 | Tonankai, Nhật Bản | 33.75 | 136 | 1.223 | 8.1 | M |
1 tháng 4năm 1946 | 12:28 | Đảo Unimak, Alaska, Hoa Kỳ | 52.75 | -163.5 | 165 | 7.3 | MS (Stover and Coffman, 1993) |
23 tháng 6năm 1946 | 17:13 | Bán đảo Vancouver, British Columbia, Canada | 49.75 | -124.5 | 7.3 | ML (Gutenberg and Richter, 1954: Rogers, 1983) | |
4 tháng 8năm 1946 | 17:51 | Cộng hoà Dominican | 19.25 | -69 | 100 | 8 | MS (Abe, 1981) |
20 tháng 12năm 1946 | 19:19 | Nankaido, Nhật Bản | 32.5 | 134.5 | 1.330 | 8.1 | M |
16 tháng 10năm 1947 | 2:09 | Fairbanks, Alaska, Hoa Kỳ | 64.2 | -148.3 | 7.2 | M | |
13 tháng 4năm 1949 | 19:55 | Olympia, Washington, Hoa Kỳ xem Trận động đất Nisqually | 47.1 | -122.7 | 8 | 7.1 | ML (Baker và Langston, 1987) |
22 tháng 8năm 1949 | 4:01 | Đảo Queen Charlotte, British Columbia, Canada | 53.62 | -133.27 | 8.1 | MS (Gutenberg and Richter, 1954) | |
15 tháng 8năm 1950 | 14:09 | Assam-Tây Tạng | 28.5 | 96.5 | 1.526 | 8.6 | M |
21 tháng 8năm 1951 | 10:57 | Kona, Hawaii, Hoa Kỳ | 19.5 | -155.95 | 6.9 | MS (Klein and Wright, 2000) | |
21 tháng 7năm 1952 | 11:52 | Quận Kern, California, Hoa Kỳ | 34.95 | -119.05 | 12 | 7.3 | M (Stein and Hanks, 1998) |
4 tháng 11năm 1952 | 16:58 | Kamchatka, Nga xem Trận động đất Kamchatka | 52.76 | 160.06 | 9 | M | |
29 tháng 3năm 1954 | 6:17 | Tây Ban Nha | 37.03 | -3.51 | 7.9 | M | |
6 tháng 7năm 1954 | 11:13 | Núi Cầu vồng, Nevada, Hoa Kỳ | 39.42 | -118.53 | 6.6 | M (Ellsworth, 1990) | |
24 tháng 8năm 1954 | 5:51 | Stillwater, Nevada, Hoa Kỳ | 39.58 | -118.45 | 6.8 | M (Ellsworth, 1990) | |
16 tháng 12năm 1954 | 11:07 | Fairview Peak, Nevada, Hoa Kỳ | 39.32 | -118.2 | 7.1 | M (Ellsworth, 1990) | |
16 tháng 12năm 1954 | 11:11 | Thung lũng Dixie, Nevada,Hoa Kỳ | 39.5 | -118 | 6.8 | M (Ellsworth, 1990) | |
24 tháng 10năm 1955 | 4:10 | Concord, California, Hoa Kỳ | 38 | -122.1 | 1 | 5.4 | ML (Bolt and Miller, 1975) |
9 tháng 3năm 1957 | 14:22 | Đảo Andreanof, Alaska, Hoa Kỳ | 51.56 | -175.39 | 9.1 | M | |
4 tháng 12năm 1957 | 3:37 | Govi-Altay, Mông Cổ | 45.15 | 99.21 | 30 | 8.1 | M |
7 tháng 4năm 1958 | 15:30 | Huslia, Alaska, Hoa Kỳ | 65.94 | -156.37 | 7.3 | M | |
10 tháng 7năm 1958 | 6:15 | Fairweather, Alaska, Hoa Kỳ | 58.37 | -136.66 | 5 | 7.7 | M |
18 tháng 8năm 1959 | 6:37 | Hebgen Lake, Montana, Hoa Kỳ | 44.6 | -110.64 | 28 | 7.3 | M (Dosier, 1985) |
29 tháng 2năm 1960 | 23:40 | Agadir, Maroc | 30.5 | -9.3 | 10.000 | 5.7 | M |
22 tháng 5năm 1960 | 19:11 | Chile xem Trận động đất lớn ở Chile | -38.24 | -73.05 | 5.700 | 9.5 | M |
27 tháng 3năm 1964 | 5:36 (PST) | Prince William Sound,Alaska, Hoa Kỳ xem Động đất Alaska 1964 | 61.02 | -147.65 | 125 | 9.2 | M |
16 tháng 6năm 1964 | 4:01 | Niigata, Nhật Bản | 38.43 | 139.23 | 26 | 7.5 | M |
4 tháng 2năm 1965 | 5:01 | Đảo Rat, Alaska, Hoa Kỳ | 51.21 | -178.5 | 8.7 | M | |
29 tháng 4năm 1965 | 15:28 | Seattle-Tacoma,Washington, Hoa Kỳ xem Trận động đất Nisqually | 47.32 | -122.33 | 7 | 6.5 | ML (Algermissen and Harding, 1965) |
28 tháng 6năm 1966 | 4:26 | Parkfield, California, Hoa Kỳ | 35.88 | -120.49 | 6.1 | M (Tsai and Aki, 1969) | |
12 tháng 9năm 1966 | 16:41 | Truckee, California, Hoa Kỳ | 39.38 | -120.22 | 5.9 | M (Tsai and Aki, 1970) | |
10 tháng 12năm 1967 | 22:51 | Koyna, Ấn Độ | 17.39 | 73.77 | 6.3 | M (Langston, 1976) | |
2 tháng 10năm 1969 | 6:19 | Santa Rosa, California, Hoa Kỳ | 38.3 | -122.76 | 1 | 5.7 | ML (Bolt and Miller, 1975) |
31 tháng 5năm 1970 | 20:23 | Peru | -9.25 | -78.84 | 66.000 | 7.9 | M |
31 tháng 7năm 1970 | 17:08 | Colombia | -1.49 | -72.56 | 8 | MS | |
9 tháng 2năm 1971 | 14:00 | San Fernando, California,Hoa Kỳ xem Trận động đất Sylmar | 34.4 | -118.39 | 65 | 6.7 | M (Heaton, 1982) |
4 tháng 2năm 1975 | 11:36 | Haicheng, Trung Quốc | 40.72 | 122.73 | 10.000 | 7 | M (Cipar, 1979) |
1 tháng 8năm 1975 | 20:20 | Oroville, California, Hoa Kỳ | 39.5 | -121.39 | 5.8 | M | |
29 tháng 11năm 1975 | 14:47 | sườn núi phía nam của Kilauea, Hawaii, Hoa Kỳ | 19.45 | -155.03 | 2 | 7.2 | MS (Klein and Wright, 2000) |
4 tháng 2năm 1976 | 9:01 | Guatemala | 15.3 | -89.14 | 23.000 | 7.5 | M |
27 tháng 7năm 1976 | 19:42 | Tangshan, Trung Quốc xem Trận động đất Tangshan | 39.61 | 117.89 | 242.419* | 7.6 | M |
6 tháng 8năm 1979 | 17:05 | Coyote Lake, California, Hoa Kỳ | 37.11 | -121.52 | 5.7 | M (Ellsworth, 1990) | |
15 tháng 10năm 1979 | 23:17 | Thung lũng Hoàng gia,California, Hoa Kỳ | 32.82 | -115.65 | 6.4 | M (Hartzell and Heaton, 1983) | |
24 tháng 1năm 1980 | 19:00 | Livermore, California, Hoa Kỳ | 37.71 | -121.73 | 5.8 | M (Bolt et al., 1981) | |
25 tháng 5năm 1980 | 16:33 | Hồ Mammoth, California,Hoa Kỳ | 37.6 | -118.83 | 6.1 | M (Ellsworth, 1990) | |
25 tháng 5năm 1980 | 16:49 | Mammoth Lakes, California,Hoa Kỳ | 37.65 | -118.9 | 5.9 | ML (Ellsworth, 1990) | |
25 tháng 5năm 1980 | 19:44 | Mammoth Lakes, California,Hoa Kỳ | 37.55 | -118.82 | 5.8 | M (Ellsworth, 1990) | |
27 tháng 5năm 1980 | 14:50 | Mammoth Lakes, California,Hoa Kỳ | 37.48 | -118.8 | 6 | M (Ellsworth, 1990) | |
8 tháng 11năm 1980 | 10:27 | Gorda Plate, California, Hoa Kỳ | 41.12 | -124.67 | 7.2 | M (Ellsworth, 1990) | |
2 tháng 5năm 1983 | 23:42 | Coalinga, California, Hoa Kỳ | 36.23 | -120.32 | 6.5 | M (Ellsworth, 1990) | |
28 tháng 10năm 1983 | 14:06 | Borah Peak, Idaho, Hoa Kỳ | 44.09 | -113.8 | 2 | 7 | M (PDE Monthly Listing) |
16 tháng 11năm 1983 | 16:13 | Kaoiki, Hawaii, Hoa Kỳ | 19.44 | 155.38 | 6.7 | M (PDE Monthly Listing) | |
24 tháng 4năm 1984 | 21:15 | Morgan Hill, California, Hoa Kỳ | 37.3 | -121.71 | 6.2 | M (PDE Monthly Listing) | |
23 tháng 11năm 1984 | 18:08 | Round Valley, California, Hoa Kỳ | 37.45 | -118.6 | 5.7 | M (Ellsworth, 1990) | |
19 tháng 9năm 1985 | 13:17 | Michoacán, Mexico xem Động đất Mexico 1985 | 18.44 | -102.36 | 9.500 | 8 | M (PDE Monthly Listing) |
23 tháng 12năm 1985 | 5:16 | Nahanni, Northwest Territories, Canada | 62.16 | -124.31 | 6.8 | M (Wetmiller et al., 1988) | |
7 tháng 5năm 1986 | 22:47 | Andreanof Islands, Alaska,Hoa Kỳ | 51.56 | -174.81 | 8 | M (PDE Monthly Listing) | |
8 tháng 7năm 1986 | 9:20 | north Palm Springs,California, Hoa Kỳ | 33.97 | -116.78 | 6.1 | M (Hartzell, 1989) | |
21 tháng 7năm 1986 | 14:42 | Chalfant Valley, California,Hoa Kỳ | 37.53 | -118.43 | 6.2 | M (Ellsworth, 1990) | |
1 tháng 10năm 1987 | 14:42 | Whittier Narrows, California,Hoa Kỳ xem Trận động đất Whittier Narrows | 34.06 | -118.13 | 8 | 5.9 | M (Hartzell và Iida, 1990) |
30 tháng 11năm 1987 | 19:23 | Vịnh Alaska | 58.84 | -142.6 | 7.9 | M (PDE Monthly Listing) | |
22 tháng 1năm 1988 | 0:35 | Tennant Creek, Úc | -19.87 | 133.78 | 6.3 | M (Choy và Bowman, 1990) | |
22 tháng 1năm 1988 | 3:57 | Tennant Creek, Úc | -19.88 | 133.83 | 6.4 | M (Choy và Bowman, 1990) | |
22 tháng 1năm 1988 | 12:04 | Tennant Creek, Úc | -19.9 | 133.83 | 6.6 | M (Choy và Bowman, 1990) | |
6 tháng 3năm 1988 | 22:35 | Vịnh Alaska | 57.26 | -142.75 | 7.8 | M (PDE Monthly Listing) | |
25 tháng 11năm 1988 | 23:46 | Saguenay, Québec, Canada | 48.06 | -71.27 | 5.9 | M (Boatwright and Choy, 1992) | |
7 tháng 12năm 1988 | 7:41 | Spitak, Armenia | 40.93 | 44.11 | 25.000 | 6.8 | M (PDE Monthly Listing) |
18 tháng 10năm 1989 | 0:04 | Loma Prieta, |